này phải mở rộng các mối quan hệ để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm nhằm tạo ra được những sản phẩm phong phú, đa dạng, có sự khác biệt và tận dụng được lợi thế so sánh của vùng so với những vùng, khu vực khác. Do vậy, chính những đơn vị này là chủ thể góp phần thúc đẩy giao lưu của vùng đối với khu vực và quốc tế.
Đối với cộng đồng dân cư tại điểm du lịch: thông qua hoạt động của KTDL ở vùng, họ cũng được giao lưu và tiếp biến các giá trị văn hóa của các đối tượng khác nhau đến nơi đây. Có nghĩa là, những người dân vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quá trình giao lưu văn hóa. Chính họ là người đem những giá trị văn hóa của vùng giao lưu với các vùng, các khu vực và quốc gia trên thế giới, đồng thời họ cũng là đối tượng tiếp thu những ảnh hưởng văn hóa của khu vực và thế giới.
Bên cạnh đó, khách du lịch - những người từ nơi khác đến tham quan, nghỉ ngơi… tại một nơi không thường xuyên sinh sống của mình, cũng góp phần mang đến và mang đi những giá trị văn hóa; cách hưởng thụ, giải trí của họ cũng có tác động đến hoạt động cư dân đang sinh sống tại vùng. Đây cũng chính là chủ thể góp phần trong quá trình giao lưu giữa vùng KTTĐ với thế giới.
Như vậy, KTDL chính là yếu tố góp phần sự tăng cường giao lưu, hội nhập của vùng đối với khu vực và quốc tế.
2.2.1.3. Kinh tế du lịch góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế xã hội trong vùng
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới hiện nay cho thấy, giá trị của các ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội. Do vậy, khi các nhà kinh doanh đi tìm hiệu quả của đồng vốn, thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác. KTDL đem lại tỷ suất lợi nhuận cao, vì vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải mà khả năng thu hồi vốn lại nhanh, kỹ thuật không phức tạp, mức độ rủi ro thấp. Đặc biệt, trong lĩnh vực
kinh doanh dịch vụ bổ sung thì nhu cầu về vốn đầu tư không lớn như lĩnh vực kinh doanh dịch vụ cơ bản. Thông qua hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực du lịch, các vùng, các quốc gia có thể tận dụng lợi thế để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy, phát triển KTDL có thể xem là một kênh khá quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng, mỗi quốc gia.
Vùng KTTĐ là nơi có nhiều lợi thế phát triển KTDL hơn các vùng khác với nhiều danh lam thắng cảnh, điều kiện khí hậu thuận lợi cho phát triển khu nghỉ dưỡng cao cấp, khu du lịch đẹp có tính độc đáo, đặc sắc, mang đậm tính chất văn hóa dân tộc, vùng miền. Đây là điểm nổi bật thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, nhu cầu phát triển cuộc sống toàn diện, nâng cao sức khỏe, nhu cầu sống gần gũi với thiên nhiên của con người ngày càng được quan tâm thì những khu nghỉ dưỡng ngày càng được chú trọng xây dựng, khai thác đem lại nguồn thu lớn. Vì vậy, trong những năm gần đây, hệ thống khu nghỉ dưỡng được xây dựng có quy mô lớn, đảm bảo về chất lượng đang được đầu tư. Các doanh nghiệp nước ngoài có thể đầu tư vào việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ du lịch, đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở của khu du lịch, hoặc thông qua góp vốn, thuê mặt bằng để xây dựng những khu nghỉ dưỡng. Chính những hoạt động đầu tư này đã và đang tạo điều kiện mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng KTTĐ trên cả nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Điểm Của Kinh Tế Du Lịch Ở Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Trong Hội Nhập Quốc Tế
- Kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc trong hội nhập quốc tế - 7
- Nhóm Hạ Tầng Du Lịch Và Tiềm Năng Về Tài Nguyên Du Lịch
- Nhạy Bén Trong Định Hướng, Xây Dựng Các Chính Sách Của Những Ngành Khác Có Tác Động Mạnh Mẽ Đến Du Lịch
- Tỷ Lệ Lao Động Qua Đào Tạo Của Cả Nước Và Các Vùng Kinh Tế Trọng Điểm
- Thực Trạng Kinh Tế Du Lịch Ở Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Phía Bắc Trong Hội Nhập Quốc Tế Giai Đoạn 2011-2015
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
2.2.1.4. Kinh tế du lịch tham gia mở rộng thị trường nội địa và quốc tế cho bản thân ngành du lịch và những ngành kinh tế khác
Với đặc điểm của KTDL là có tính đa ngành, tổng hợp, tính liên vùng và gắn kết với thị trường quốc tế nên việc phát triển KTDL trong điều kiện HNQT là tất yếu. Bản thân KTDL khi xây dựng được những sản phẩm du lịch có thương hiệu, cùng với các yếu tố như văn hóa địa phương, an ninh đảm bỏa, sự thân thiện của con người… sẽ thu hút khách du lịch muốn quay trở lại, và chính điều đó quảng bá cho thương hiệu của sản phẩm du lịch, làm tăng trưởng mạnh mẽ thị trường du lịch của địa phương, vùng và quốc gia.
Kinh tế du lịch ở vùng KTTĐ phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác trong vùng và của cả nước, vì sản phẩm du lịch mang tính liên ngành có quan hệ đến nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế. Khi một khu vực nào đó trở thành điểm du lịch, du khách ở mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá, dịch vụ “ăn theo” tăng lên đáng kể. Xuất phát từ nhu cầu này của du khách mà ngành du lịch không ngừng mở rộng hoạt động thông qua mối quan hệ liên ngành, liên vùng và liên quốc gia. Do đó, KTDL tham gia mở rộng thị trường nội địa và quốc tế cho bản thân ngành du lịch và những ngành kinh tế khác.
2.2.2. Tác động của hội nhập quốc tế đối với kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn diện trong các mối quan hệ song phương, đa phương trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và những vấn đề chung hướng tới mục tiêu thiên niên kỷ. HNQT có tác động thúc đẩy sự phát triển của KTDL ở vùng KTTĐ, đồng thời cũng tạo ra các cơ hội và thách thức đối với KTDL ở vùng này.
2.2.2.1. Hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội phát triển cho kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm
- Cơ hội mở rộng thị trường khách du lịch và quảng bá hình ảnh của vùng: HNQT làm xóa đi ranh giới giữa các quốc gia, các vùng là điều không thể phủ nhận. HNQT nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng chung của các quốc gia kéo theo việc tạo điều kiện phát triển cho tự do hóa thương mại, kinh tế, chính sách thị thực được nới lỏng, các hãng hàng không giá rẻ bùng nổ, từ đó gia tăng đi lại giữa các nước. Đây là điều kiện thuận lợi để thu hút khách du lịch quốc tế đến vùng nhiều hơn, nhờ đó mà hình ảnh cũng như sản phẩm du lịch của vùng được quảng bá với thị trường khách quốc tế ngay tại vùng mà không cần thực hiện các chiến dịch truyền thông hay quảng bá.
Mặt khác, Việt Nam tham gia nhiều tổ chức khu vực và quốc tế, với vai trò và vị thế ngày càng tăng, khẳng định qua việc tổ chức ngày càng thành công nhiều sự kiện, hội nghị, hội thảo, diễn đàn mang tầm cỡ khu vực và quốc tế như: các hội nghị của tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn kinh tế Châu Á -Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn tổ chức Nghị viện Châu Á (AIPO), Diễn đàn Du lịch Đông Nam Á (ATF)… Điều này cũng mở ra cho các vùng KTTĐ, trong đó có vùng KTTĐ phía Bắc có cơ hội lớn mở rộng thị trường du lịch với hình ảnh là điểm đến an toàn và ngày càng hấp dẫn.
- Cơ hội được giao lưu, học hỏi kinh nghiệm và ứng dụng KHCN tiên tiến: HNQT giúp cho hoạt động KTDL của vùng KTTĐ được tiến xa hơn thông qua trao đổi kinh nghiệm với đối tác cũng như tham khảo, học hỏi trình độ quản lý tiên tiến từ các tập đoàn, doanh nghiệp du lịch trong và ngoài nước. Sự vươn vai của các doanh nghiệp du lịch ra ngoài biên giới sẽ giúp họ được mở mang về tư duy quản lý, quy hoạch phát triển, tiếp thu những kỹ thuật tiên tiến trong xây dựng hạ tầng du lịch, mở ra cơ hội đào tạo nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu đa dạng của mọi thành phần khách du lịch cũng như học hỏi những kinh nghiệm trong sản xuất, phân phối sản phẩm và dịch vụ du lịch… Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nước ngoài muốn kinh doanh tại vùng sẽ phải hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nhân lực cho vùng, đồng thời mang theo cả tiến bộ KHCN đưa vào ứng dụng. Từ đó, KTDL vùng có cơ hội cải cách mạnh mẽ.
- Cơ hội để đổi mới tư duy phát triển KTDL. Trong bối cảnh hội nhập, trước yêu cầu cạnh tranh và yêu cầu để du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn tương xứng với tiềm năng thì đòi hỏi phải đổi mới tư duy trong phát triển KTDL. Việc đổi mới tư duy phát triển là yêu cầu vừa đảm bảo phát huy được tiềm năng, thế mạnh, tạo ra sản phẩm du lịch cạnh tranh vừa mang giá trị bản sắc và phù hợp với xu thế HNQT. Đối với chủ thể của KTDL, khi hội nhập là
tạo sức ép buộc phải nâng cao sức mạnh nội lực, đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ chính mình, trước hết là đổi mới tư duy nếu muốn tồn tại và phát triển.
- Cơ hội liên kết mở rộng các tuyến du lịch và các loại hình du lịch mới: Thông qua quá trình giao lưu, học hỏi kinh nghiệm và hợp tác, các doanh nghiệp du lịch ở các vùng trong nước sẽ có cơ hội liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài, tạo ra các chuỗi sản phẩm du lịch đa dạng và hấp dẫn, vừa mang bản sắc của quốc gia, vùng, địa phương, vừa phù hợp với xu thế phát triển hiện đại, có giá trị đem lại lợi ích kinh tế cao. Hiện nay, một số doanh nghiệp ở trong vùng đã liên kết theo mô hình Lữ hành - Khách sạn - Hàng không, mang đến những sản phẩm du lịch có giá hợp lý, chất lượng dịch vụ đảm bảo. Từ nhu cầu du lịch ngày càng lớn và yêu cầu chất lượng sản phẩm ngày càng cao đòi hỏi phải có các sản phẩm du lịch mới, phải có sự liên kết trong mở rộng để làm mới và tích hợp các giá trị, tiện ích trong các gói sản phẩm du lịch.
- Cơ hội có được hệ thống chính sách hỗ trợ hiệu quả: HNQT mang lại rất nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp du lịch trong và ngoài nước để từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung ở các quốc gia. Tuy nhiên, để đạt được các kết quả mong muốn thì không chỉ có sự cố gắng của bản thân doanh nghiệp mà còn cần đến sự hỗ trợ rất nhiều của Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách thông thoáng và phù hợp. Với nhận thức về tầm quan trọng của HNQT trong phát triển KTDL, Đảng và Nhà nước ta đang từng bước cải cách hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư cho du lịch cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch phát triển và vươn ra bên ngoài biên giới.
2.2.2.2. Hội nhập quốc tế tạo ra những thách thức đối với sự phát triển kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm
- Hội nhập quốc tế làm gia tăng sức ép cạnh tranh cho KTDL của vùng: Cạnh tranh là một yếu tố tất yếu của nền kinh tế thị trường và nó càng được đẩy lên cao hơn trong bối cảnh HNQT - khi mà KTDL của Việt Nam được
đặt chung trong một thị trường ở vị trí ngang hàng với KTDL của các quốc gia phát triển khác. Các sản phẩm du lịch trong nước nói chung và của vùng KTTĐ nói riêng có nguy cơ bị lấn át trước các sản phẩm đã có thương hiệu trên thế giới. Điều này khiến KTDL của vùng rơi vào thế nguy hiểm, đòi hỏi KTDL trong vùng phải có tiềm lực tự thân rất lớn về chất lượng nguồn nhân lực cùng các điều kiện về vốn, hạ tầng du lịch và sự phát triển đồng đều của nhiều ngành liên quan khác như giao thông vận tải, văn hóa…
- Hội nhập quốc tế làm gia tăng sự phụ thuộc về thị trường khách du lịch của vùng vào thị trường nước ngoài. HNQT làm cho lượng khách quốc tế đến vùng nhiều hơn. Khi thị trường khách du lịch của một nước phát triển nhờ vào lượng khách quốc tế thì sự phụ thuộc vào thị trường nước ngoài là điều hiển nhiên. nếu không có những giải pháp để ứng phó với sự phụ thuộc này thì rất có thể thời cơ sẽ biến thành thách thức.
- Hội nhập quốc tế tạo ra những thách thức trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc: HNQT khiến cho sự giao thoa giữa các nền văn hóa ngày càng sâu, rộng hơn, do đó cũng dễ khiến cho mỗi quốc gia, vùng, địa phương “quên mình” trong sự đa dạng của văn hóa thế giới. Những nét đặc trưng văn hóa và bản sắc riêng đứng trước nguy cơ bị pha trộn, “hòa tan”, hệ giá trị truyền thống có thể bị mai một nếu không được gìn giữ, khẳng định và phát huy. Bên cạnh cơ hội tiếp thu tinh hoa giá trị văn hóa của thế giới là nguy cơ việc tiếp thu thiếu chọn lọc, tràn lan, thỏa hiệp và “hòa tan” giá trị dẫn đến bị mất bản sắc, giá trị văn hóa truyền thống của vùng, của quốc gia dân tộc. Các địa điểm du lịch thiên nhiên dần mất đi vẻ đẹp vốn có do sự tác động của bàn tay con người.
Mặc dù đứng trước rất nhiều khó khăn và thách thức, nhưng HNQT là xu hướng tất yếu mà quốc gia nào cũng cần hòa mình để phát triển. Với tư thế độc lập, tự chủ, hòa nhập mà không “hòa tan”; lấy xây dựng và phát huy nội lực là chính, huy động và phát huy ngoại lực là quan trọng, Việt Nam đã và
đang có những tiến bộ ấn tượng trong việc quảng bá hình ảnh của mình ra thế giới, mà chìa khóa cho sự thành công này cốt lõi nằm ở việc hoạch định các chính sách, mục tiêu và chiến lược đúng đắn, phù hợp với điều kiện kinh tế, tự nhiên, văn hóa, xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
2.3. KINH NGHIỆM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở MỘT SỐ QUỐC GIA - BÀI HỌC CHO VIỆT NAM VÀ VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA BẮC
Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Indonesia và Malaysia là những quốc gia phát triển mạnh về KTDL trong khu vực và thế giới. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển KTDL ở các quốc gia này để rút ra một số bài học cho Việt Nam nói chung và vùng KTTĐ phía Bắc nói riêng.
2.3.1. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế du lịch ở một số quốc gia
2.3.1.1. Coi phát triển du lịch là quốc sách để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó coi trọng phát triển kinh tế du lịch vùng.
Thuộc nhóm kinh nghiệm này điển hình có Singapore, Trung Quốc. Các quốc gia này coi trọng việc xây dựng chiến lược quốc gia phát triển KTDL vùng, phát huy lợi thế, tiềm của năng vùng để đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch.
Việc xây dựng chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển KTDL được Chính phủ Singapore rất coi trọng và được đặt trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Singapore đã xây dựng chiến lược ưu tiên phát triển KTDL thông qua một hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ để có thể huy động mọi nguồn lực thúc đẩy KTDL phát triển nhanh và bền vững. Hệ thống cơ chế, chính sách này dựa trên những đặc trưng của du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng có tính xã hội hóa cao và mang tính toàn cầu; đồng thời hệ thống cơ chế, chính sách đó thích ứng với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử, văn hóa và tận dụng được thời cơ, thế mạnh ở từng thời điểm trên mỗi vùng, miền của đất nước Singapore.
Chính phủ Trung Quốc thì xác định du lịch là một ngành kinh tế trọng điểm, trụ cột cần ưu tiên đầu tư phát triển. Quốc gia này đề ra phương châm chỉ đạo phát triển KTDL là tăng cường đưa khách du lịch quốc tế vào, khuyến khích du lịch nội địa và đưa khách du lịch ra nước ngoài một cách vừa phải. Để thu hút du khách quốc tế và nội địa, ngành du lịch Trung Quốc đã đưa ra những sản phẩm du lịch độc đáo, đa dạng với các chủ đề được sắp xếp theo từng năm. Qua đó mà lượng khách quốc tế đến Trung Quốc ngày càng tăng, thu hút mạnh ngoại tệ về cho đất nước. Trung Quốc đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 sẽ trở thành một cường quốc về du lịch trên thế giới.
Các nước Singapore, Malaysia xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển ưu tiên cho du lịch có trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Chính phủ Singapore thành công trong việc hoạch định, xây dựng chiến lược và các kế hoạch phát triển du lịch phù hợp cho từng giai đoạn. Từ năm 1965 đến nay, Singapore đã xây dựng và thực hiện thành công 6 kế hoạch phát triển du lịch khác nhau, đó là: “Kế hoạch Du lịch Singapore” (năm 1968), “Kế hoạch Phát triển du lịch” (năm 1986), “Kế hoạch Phát triển chiến lược” (năm 1993), “Du lịch 21” (năm 1996), “Du lịch 2015” (năm 2005),
“Địa giới du lịch 2020” (năm 2012) [50].
Về du lịch, Malaysia không có một quy hoạch tổng thể phát triển mà chỉ có “Kế hoạch chuyển đổi du lịch Malaysia đến năm 2020”. Trong chiến lược chung của Malaysia về chuyển dịch kinh tế, ngành Du lịch xây dựng Kế hoạch chuyển dịch phát triển du lịch đến năm 2020 tập trung vào việc phát triển sản phẩm và thị trường với mục tiêu chính là tập trung vào thị trường có khả năng chi trả cao, đẩy mạnh tiêu dùng của khách du lịch. Hướng chính trong quan điểm phát triển du lịch là: bảo vệ, bảo tồn và giữ gìn môi trường, phát triển du lịch xanh, chú trọng tính cân bằng và bền vững. Malaysia rất chú trọng phát triển du lịch sinh thái.