Ngành Du lịch của các nước Singapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia đã xây dựng được chiến lược, sách lược phát triển du lịch phù hợp, chính sách đầu tư đạt hiệu quả kinh tế cao, nhất là đầu tư về hạ tầng cơ sở cho du lịch.
Trong “Du lịch 2015”, Singapore tập trung phát triển các thị trường du lịch chính với phương châm tạo sự hiểu biết tốt hơn về Singapore, phát triển Singapore thành một điểm du lịch “phải đến” bằng cách cải thiện chất lượng dịch vụ, nâng cấp hạ tầng cơ sở du lịch, phát triển nguồn nhân lực du lịch chuyên nghiệp, đa dạng các sản phẩm du lịch… Năm 2012, Singapore chi 300 triệu đô Sing để tổ chức các sự kiện du lịch, chi 340 triệu đô Sing phát triển các sản phẩm du lịch, chi 265 triệu đô Sing phát triển nguồn nhân lực du lịch. Năm 2015, Singapore đầu tư cho Quỹ phát triển du lịch là 2 tỷ đô Sing, đón khoảng 17 triệu khách du lịch quốc tế và doanh thu từ du lịch khoảng 30 tỷ đô Sing [50].
Indonesia đã xây dựng xong chiến lược tổng thể phát triển du lịch đến năm 2025. Mục đích của chiến lược này là phát triển khoảng 50 điểm đến quy mô cấp quốc gia. Năm 2015, quốc gia này đã hoàn thành kế hoạch phát triển du lịch tập trung vào 3 loại hình du lịch chính là du lịch sinh thái, du lịch nông thôn và du lịch biển.
Thái Lan là quốc gia thu hút được lượng khách quốc tế rất lớn. Có nhiều nguyên nhân để đạt được kết quả đó, trong đó đầu tư cho cơ sở hạ tầng là một trong những nguyên nhân cơ bản. Về mặt bằng và cơ sở hạ tầng cảng Thái Lan xếp thứ 71/141 quốc gia. Về cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch, xếp thứ 21/141 quốc gia [53].
Malaysia là quốc gia có nền KTDL phát triển khá mạnh ở Đông Nam Á. Hàng không quốc gia Malaysia đã mở nhiều tuyến bay nội địa và quốc tế, phát triển nhiều trung tâm du lịch mạo hiểm, các khách sạn được phân bố đều khắp cả nước. Cơ sở hạ tầng và nền kinh tế có mức tăng trưởng cao đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch phát triển.
2.3.1.2. Nhạy bén trong định hướng, xây dựng các chính sách của những ngành khác có tác động mạnh mẽ đến du lịch
- Chính sách xuất nhập cảnh
Về chính sách xuất nhập cảnh thì Thái Lan là một trong những quốc gia tiên phong trong việc thực hiện chính sách này với nhiều biện pháp để đơn giản hóa thủ tục visa cho công dân các nước đến Thái Lan.
Có thể bạn quan tâm!
- Kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc trong hội nhập quốc tế - 7
- Nhóm Hạ Tầng Du Lịch Và Tiềm Năng Về Tài Nguyên Du Lịch
- Kinh Tế Du Lịch Góp Phần Thu Hút Vốn Đầu Tư Nước Ngoài Cho Phát Triển Kinh Tế Xã Hội Trong Vùng
- Tỷ Lệ Lao Động Qua Đào Tạo Của Cả Nước Và Các Vùng Kinh Tế Trọng Điểm
- Thực Trạng Kinh Tế Du Lịch Ở Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Phía Bắc Trong Hội Nhập Quốc Tế Giai Đoạn 2011-2015
- Số Khách Sạn Được Xếp Hạng Từ 1 Đến 5 Sao Tại Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Phía Bắc Năm 2015
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
Với mục đích du lịch và ở lại không quá 30 ngày đối với mỗi lần viếng thăm thì không cần visa vẫn có thể đến Thái Lan, điều này đã được áp dụng khá phổ biến với công dân 55 quốc gia và vũng lãnh thổ. Thái Lan còn miễn visa du lịch trong thời hạn 15 ngày cho công dân của những nước đến du lịch Thái Lan thông qua các điểm nhập cảnh ở các nước tiếp giáp biên giới với Thái Lan, riêng công dân Malaysia được miễn visa du lịch nếu lưu trú không quá 30 ngày. Thái Lan đã có thỏa thuận song phương về miễn visa với các nước như Brazil, Chi Lê, Hàn Quốc và Pê ru, Ác-hen-ti-na, cho phép công dân các nước này có hộ chiếu ngoại giao hoặc phổ thông đều được miễn visa đối với mỗi lần viếng thăm Thái Lan không quá 90 ngày.
- Chính sách thuế
Chính phủ Thái Lan thực hiện miễn thuế VAT các địa điểm bán hàng thủ công địa phương và các công ty lữ hành có thu nhập thấp hơn 600.000 baht. Với các công ty lữ hành có thu nhập trên mức 600.000 baht nhưng dưới mức 1.200.000 bath thì được quyền lựa chọn một trong hai phương án: Đóng 1,5% thuế doanh thu hoặc nộp thuế VAT thông thường [53].
Đối với du khách đến Thái Lan theo visa du lịch sẽ được hoàn lại thuế giá trị gia tăng (thuế suất 7%) đối với những hàng hóa đã được mua tại các cửa hàng có treo biển hiệu “Hoàn thuế giá trị gia tăng cho khách du lịch”. Đây là một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của việc mua sắm ở Thái Lan.
2.3.1.3. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao bao gồm các nhà quản lý, chuyên gia và nhân viên ngành du lịch
Một là, coi trọng công tác tổ chức bộ máy quản lý để phát triển du lịch.
Cơ quan Du lịch Quốc gia Thái Lan, (Tourism Authority of Thailand - TAT) là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất, có trách nhiệm xúc tiến và phát triển du lịch Thái Lan. TAT là cơ quan trực thuộc Chính phủ, hoạt động độc lập. Đứng đầu TAT là Thống đốc; giúp việc cho Thống đốc có Văn phòng Thống đốc, Hội đồng Tư vấn, Viện Đào tạo Khách sạn và Du lịch, Văn phòng Kinh doanh Du lịch Bangkok, Ban Quản lý hoạt động khu du lịch và Thanh tra Tài chính nội bộ. Sự hoạt động của TAT rất hiệu quả, bởi có chiến lược và biết tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu thị trường và xúc tiến quảng bá, sau đó đưa ra định hướng và những giải pháp cụ thể cho các doanh nghiệp thực hiện.
Ở Malaysia, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch là Cục Xúc tiến Du lịch thuộc Bộ Văn hóa - Nghệ thuật và Du lịch, bao gồm các bộ phận: Vụ Phát triển, Vụ Xúc tiến, Vụ Nghiên cứu và Đào tạo, Vụ quản lý Hội thảo quốc tế, Vụ Tổng hợp, Các Văn phòng tại nước ngoài và các Trung tâm Thông tin. Chính phủ Malaysia đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của du lịch trong nền kinh tế quốc dân, tầm quan trọng của việc tổ chức bộ máy quản lý phát triển KTDL nên ngành du lịch của nước này có sự phát triển vượt bậc.
Hai là, định hướng chính sách và nhận thức của toàn xã hội về du lịch.
Thái Lan là quốc gia phát triển mạnh về KTDK, điều này bắt nguồn từ nhận thức và hành động từ Nhà vua, đến Chính phủ và người dân Thái. Ở quốc gia này, cả Nhà vua, Chính phủ và Nhân dân cùng làm du lịch. Đây cũng là một trong những quốc gia có mô hình du lịch dựa vào cộng đồng rất tốt với các loại hình du lịch như: du lịch nông nghiệp, du lịch “homestay”… Người Thái luôn giữ nụ cười trên môi, từ người lái xe, nhân viên phục vụ cho tới công chức, cảnh sát… với thái độ phục vụ niềm nở và thân thiện, mỗi người dân Thái Lan có thể là một hướng dẫn viên du lịch thực thụ.
Indonesia có chủ trương phát triển du lịch dựa vào cộng đồng. Chính phủ hỗ trợ phát triển bằng việc cho thuê đất với giá rẻ để cộng động làm du lịch, đồng thời hướng dẫn và đào tạo cho cộng đồng về nghiệp vụ du lịch. Một trong những thành công của KTDL nơi đây là sự tôn trọng ý kiến, tập tục của người dân bản địa, nâng cao nhận thức về phát triển KTDL cho người dân theo một quá trình và có các quy định chặt chẽ về kiến thức. Bên cạnh đó, Nhà nước yêu cầu người dân phải bảo tồn và giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống.
Ba là, quan tâm đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển và HNQT ngày càng sâu rộng.
Ở Thái Lan, đội ngũ chuyên gia và nhân viên cho ngành du lịch được đào tạo và bồi dưỡng một cách chuyên nghiệp. Các hướng dẫn viên du lịch Thái Lan được đào tạo ngoại ngữ một cách bài bản, một hướng dẫn viên người Thái thường biết 3 ngoại ngữ. Đối với nguồn nhân lực và thị trường lao động năm 2015, chỉ số xếp hạng cạnh tranh của Thái Lan là 29/141 quốc gia, với giá trị là 4,98 [53].
2.3.1.4. Coi trọng và đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, quảng bá du lịch, quan tâm đầu tư cho công tác phát triển thị trường của ngành du lịch
Một là, cơ quan quản lý du lịch đã quan tâm tạo nên những chiến dịch quảng bá và xúc tiến đa dạng.
Cơ quan Du lịch Quốc gia Thái Lan luôn phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan đến du lịch để chỉ đạo các doanh nghiệp triển khai các hoạt động du lịch; qua đó, liên tục đề xuất, trình Chính phủ phê duyệt từ các chính sách, chiến lược cho đến các chiến dịch, chương trình xúc tiến quảng bá từng thị trường khách cụ thể trong từng giai đoạn nhất định.
Ở Indonesia, vụ Thị trường của Cục Xúc tiến có nhiệm vụ theo dõi diễn biến thị trường, định hướng và tổ chức các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch ở cấp quốc gia.
Malaysia rất coi trọng công tác quảng bá sản phẩm du lịch trên cơ sở đa dạng sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của khách hanhg. Đồng thời, Chính phủ Malaysia thường xuyên nâng cấp trang thiết bị cho ngành du lịch (mỗi năm chi hàng triệu Ringgit cho công tác này) và duy trì phát triển văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Hai là, đẩy mạnh tiếp thị du lịch.
Thái Lan là quốc gia có nhiều thành công trong công tác tiếp thị du lịch với nhiều chiến dịch quảng bá và khẩu hiệu độc đáo, sáng tạo qua từng năm. Tổng cục du lịch Thái Lan đã sử dụng một công cụ hữu hiệu để xúc tiến du lịch tại các nước sở tại đó là mở nhiều văn phòng đại diện tại nước ngoài. Hiện nay, quốc gia này có 27 văn phòng đại diện ở nước ngoài nằm ở 4 châu: Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ và Châu Đại Dương.
Thái Lan còn tiến hành tiếp thị du lịch thông qua việc thực hiện và đăng tải trên mạng các cuộc phỏng vấn chuyên nghiệp đối với khách du lịch; mời các nhân vật nổi tiếng đến thăm Thái Lan và tranh thủ quảng bá trên các phương tiện truyền thông; đồng thời khuyến khích quảng bá truyền miệng của những khách du lịch có thiện chí và của những người Thái Lan sinh sống ở nước ngoài để giới thiệu về hình ảnh của đất nước.
Malaysia tập trung vào quảng bá sản phẩm du lịch như: nghỉ dưỡng tại các khu du lịch, vui chơi giải trí, các loại hình thể thao, các địa điểm mua sắm; đặc biệt tập trung vào đẩy mạnh du lịch chữa bệnh, du lịch giáo dục và du lịch MICE.
2.3.2. Bài học về phát triển kinh tế du lịch cho vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
Một là, xây dựng chiến lược tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò, tầm quan trọng của KTDL trong quá trình phát triển chung của đất nước; nâng cao trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, doanh nghiệp và nhân dân đối với việc phát triển KTDL.
Hai là, có chiến lược quảng bá du lịch phù hợp đối với từng khu vực, từng đối tượng khách du lịch trong và ngoài nước; liên kết để tạo ra chuỗi những sản phẩm du lịch độc đáo của các địa phương trong vùng, tạo sự đa dạng, hấp dẫn lôi cuốn sự chú ý của du khách. Đặc biệt chú ý phát huy những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đã được UNESCO vinh danh.
Ba là, tăng cường quản lý, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch. Trong kế hoạch trung hạn và dài hạn, các bộ ngành và các tỉnh thành trong cả nước ưu tiên đầu tư đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành du lịch, nhất là cho các vùng du lịch trọng điểm và hiện đại hóa công nghệ thông tin và truyền thông.
Bốn là, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và đề ra các chính sách, giải pháp để phát triển KTDL vùng. Đối với nội dung quy hoạch, kế hoạch du lịch cần tập trung những vấn đề thực tế đảm bảo tính khả thi của các mục tiêu quy hoạch đặt ra. Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển KTDL cần chú trọng việc nghiên cứu đề xuất những trọng tâm phát triển cho từng giai đoạn, chú trọng đề xuất những loại hình du lịch mới phù hợp với nhu cầu thị trường.
Chính quyền địa phương cần tôn trọng ý kiến cộng đồng dân cư trong quá trình xây dựng cũng như trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển KTDL. Bên cạnh đó, cần coi trọng công tác thống kê về du lịch phục vụ xây dựng và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch.
Năm là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển KTDL, nhất là thiết lập đường bay, các tuyến giao thông thuận tiện… Việc xây dựng các cơ sở hạ tầng du lịch phù hợp với quy hoạch tổng thể, thống nhất với quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành, lĩnh vực khác.
Với mục đích phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế sẵn có và để du lịch đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của KTDL vùng, cần có tầm nhìn dài hạn, lựa chọn được những ý tưởng, phương án quy hoạch phù hợp, lựa chọn
được các nhà tư vấn thực sự có kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển hạ tầng du lịch.
Dưới góc độ tiếp cận của chuyên ngành Kinh tế chính trị về KTDL, trong chương 2, tác giả đã xây dựng khái niệm về KTDL ở vùng KTTĐ trong HNQT, luận giải và phân tích những đặc điểm của KTDL ở vùng KTTĐ trong HNQT; những yếu tố cấu thành của KTDL vùng KTTĐ; các tiêu chí đánh giá hiệu quả của KTDL ở vùng KTTĐ trong HNQT. Đồng thời, tác giả cũng tập trung phân tích những tác động qua lại giữa quá trình HNQT với sự phát triển của KTDL ở vùng KTTĐ. Đặc biệt, khi nghiên cứu hoạt động KTDL ở các nước như: Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Indonesia và Malaysia - những quốc gia phát triển mạnh về KTDL trong khu vực và thế giới, tác giả đã rút ra một số bài học về phát triển KTDL cho Việt Nam nói chung và vùng KTTĐ phía Bắc nói riêng. Đây là những điểm mới của luận án được trình bày ở chương này.
Chương 3
THỰC TRẠNG KINH TẾ DU LỊCH Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA BẮC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA BẮC
3.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế du lịch
3.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
Vùng KTTĐ phía Bắc là một trong bốn vùng KTTĐ của Việt Nam, nằm ở vị trí trung tâm của sự giao lưu giữa vùng Tây Bắc với vùng Đông Bắc, giữa vùng núi phía Bắc với miền Trung, giữa các tỉnh phía Bắc với các tỉnh phía Nam. Với vị trí địa lý tự nhiên, vùng KTTĐ phía Bắc là cửa ngõ vào - ra của các tỉnh phía Bắc Việt Nam, là nơi tập trung các tuyến đường, bến cảng hướng ra biển. Vùng KTTĐ phía Bắc bao gồm Thủ đô Hà Nội, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học - công nghệ của cả nước; có hai hành lang và một vành đai kinh tế trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Vùng KTTĐ phía Bắc là nơi có những lợi thế nổi trội so với những vùng và khu vực khác, có điều kiện thuận lợi để phát triển KTDL. Vùng tập trung nhiều di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh của Việt Nam. Bởi vậy, phát triển KTDL vùng có ý nghĩa động lực to lớn đối với phát triển KTDL của Việt Nam.
- Về giao thông vận tải
Vùng KTTĐ phía Bắc có hệ thống đầy đủ các loại hình giao thông như: đường bộ, đường thủy, đường sắt và đường hàng không với hạ tầng giao thông tương đối phát triển. Điều này tạo nên điều kiện thuận lợi cho việc phát triển KTDL vùng, tăng cường sự liên kết để phát triển các gói sản phẩm du lịch đa dạng, có giá trị cao từ các địa phương trong vùng với nhau, trong vùng với cả nước.