Kết Quả Nghiên Cứu Ở Các Công Trình Đã Công Bố Và Những Vấn Đề Cần Tiếp Tục Được Nghiên Cứu


Nhóm giải pháp điều tiết giá cả; (iv) Nhóm giải pháp tạo lập môi trường du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế.

- Luận án tiến sĩ “Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch lữ hành quốc tế Việt Nam sau khi Việt Nam ra nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)” của tác giả Nguyễn Quang Vinh [66]. Trên cơ sở xác định những nhân tố cấu thành nên khả năng cạnh tranh, xây dựng hệ thống chỉ tiêu và mô hình xác định khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp lữ hành quốc tế, luận án đã phân tích hiện trạng môi trường cạnh tranh, đánh giá khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành quốc tế ở Việt Nam cũng như các tác động của việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành quốc tế. Từ đó, luận án đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành quốc tế của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO như sau: (i) Củng cố tăng cường nguồn lực của doanh nghiệp; (ii) Tăng cường các hoạt động phát triển thị trường; (iii) Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm; (iv) Duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh; (v) Nâng cao khả năng quản lý; (vi) Tăng cường khả năng liên kết và hợp tác.

Như vậy, các công trình này đã tập trung nghiên về KTDL ở các khía cạnh khác nhau như: vai trò của du lịch trong mở rộng cơ hội phát triển kinh tế, thị trường du lịch, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành du lịch cũng như cạnh tranh những điểm đến của du lịch Việt Nam… Bên cạnh đó, các công trình đều đề xuất những giải pháp cơ bản để phát triển KTDL trong bối cảnh HNQT, có thể khái quát thành các nhóm sau: Tăng cường khả năng liên kết và hợp tác; Nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ du lịch; Cải thiện môi trường chính trị và hoàn thiện hành lang pháp lý; Tăng cường quảng bá và đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là những nội dung quan trọng để tác giả tham khảo trong quá trình hoàn thành luận án.


1.3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Ở CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC ĐƯỢC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Những vấn đề đã được đề cập

Khái quát kết quả nghiên cứu của những công trình trên đã thể hiện nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về KTDL. Các công trình đã luận giải khá rõ khung lý thuyết về KTDL, phát triển KTDL, phát triển du lịch bền vững trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện đại, HNQT và khu vực. Một số công trình đi sâu nghiên cứu về thị trường du lịch, tính cạnh tranh trong thị trường du lịch, phát triển sản phẩm du lịch, thu hút đầu tư cho du lịch, kinh nghiệm phát triển du lịch, trong khi một số công trình khác lại đi sâu vào nghiên cứu về xu hướng phát triển của KTDL để đưa ra các dự báo làm căn cứ cho hoạch định chính sách vĩ mô và vi mô. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài liên quan đến chủ đề KTDL đã được nêu trên tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:

- Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã trình bày rõ nét các khái niệm về du lịch và KTDL dưới góc độ các lý thuyết về kinh tế, qua đó cho thấy rõ các đặc điểm của KTDL và thị trường du lịch.

- Thứ hai, các nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của KTDL trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và sự cần thiết phải gắn kết du lịch với thương mại, giao thông vận tải cũng như cần phải tăng cường khả năng liên kết giữa các vùng, các địa phương lân cận với nhau để tạo ra một khu vực du lịch đồng bộ và chuyên nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

- Thứ ba, các nghên cứu đã phân tích các yếu tố tham gia trong hoạt động của KTDL bao gồm: các chủ thể hoạt động sản xuất - kinh doanh; cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, sản phẩm và dịch vụ du lịch; tài nguyên du lịch; chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Đặc biệt các công trình trên trình bày và phân tích khá chuyên sâu về điều kiện đảm bảo phát triển KTDL như: nguồn nhân lực trong hoạt động du lịch, cơ sở vật chất - kỹ thuật, chất lượng dịch vụ


Kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc trong hội nhập quốc tế - 5

và các vấn đề quản lý như: quy hoạch phát triển du lịch, tổ chức và quản lý của ngành Du lịch.

Thứ tư, các công trình nghiên cứu đã đem đến một bức tranh đa dạng về ngành công nghiệp du lịch ở nhiều quốc gia trên thế giới. Qua đó, các công trình cho thấy những bài học kinh nghiệm quan trọng trong việc phát triển du lịch bền vững, xây dựng hình ảnh và sản phẩm du lịch thu hút khách du lịch quốc tế.

- Thứ năm, một số công trình nghiên cứu đã đề cập tới thực trạng về KTDL và thị trường du lịch ở một số vùng và địa phương ở Việt Nam như: vùng Bắc Trung Bộ, khu vực phía Nam, đồng bằng sông Cửu Long… Trong đó, các tác giả phân tích những thành công, hạn chế và đề xuất các giải pháp để phát triển KTDL ở các khu vực này. Ở một số công trình nghiên cứu khác, các tác giả cũng đã đề xuất những phương hướng, mục tiêu và các nhóm giải pháp nhằm phát triển du lịch, thị trường du lịch và kinh doanh du lịch như: Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch để thu hút khách du lịch; Tăng cường cơ chế chính sách thu hút, nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư để phát triển KTDL; Chuyên nghiệp hóa cách thức vận hành các nguồn lực du lịch, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực du lịch trong quá trình HNQT.

Như vậy, các tác giả đã phản ánh khá đầy đủ, chi tiết và rõ nét về khái niệm, vị trí, vai trò của KTDL, coi KTDL là một ngành công nghiệp mũi nhọn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, về mặt lý luận các công trình khoa học đã công bố chưa làm rõ khái niệm KTDL dưới góc độ kinh tế chính trị, những đặc trưng, đặc thù của KTDL so với các ngành kinh tế khác, chưa phân tích có hệ thống các yếu tố cấu thành KTDL trong HNQT. Cần nhấn mạnh rằng vấn đề HNQT chưa được đề cập sâu và có tính hệ thống ở các công trình trên trong khi vấn đề này đang đặt ra bức thiết. Đồng thời, các công trình nghiên cứu nội dung KTDL trong bối cảnh của các nước có điều kiện kinh tế, văn hóa và xã hội không giống những điều kiện của Việt


Nam nên các bài học và các kết luận rút ra chỉ mang tính chất tham khảo và bổ sung kinh nghiệm cho Việt Nam. Do đó, đây là những nguồn tài liệu tham khảo thứ cấp cho nghiên cứu sinh. Vì vậy, đề tài mà nghiên cứu sinh lựa chọn nghiên cứu không trùng tên và nội dung với các công trình đã công bố mà nghiên cứu sinh được biết cho đến nay.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục được nghiên cứu

Mặc dù các tác giả nêu trên với những công trình của mình đã phản ánh khá rõ nét về một số khía cạnh nhất định của KTDL nhưng chưa có những nghiên cứu chuyên sâu chỉ ra những thuận lợi, khó khăn thách thức của KTDL khi quá trình hội nhập đang diễn ra ngày một sâu rộng, do đó, chưa cho thấy được thuận lợi và khó khăn của Việt Nam nói chung cũng như của vùng KTTĐ phía Bắc nói riêng trong phát triển KTDL thời kỳ hội nhập.

Về mặt thực tiễn, các công trình đã công bố chưa nêu bật được thực trạng phát triển KTDL ở các tỉnh của vùng KTTĐ phía Bắc, chưa cho thấy được những tiềm năng, thuận lợi cũng như những khó khăn, thách thức của phát triển KTDL ở vùng này. Trong khi quá trình HNQT đang làm thay đổi từng ngày bộ mặt của đất nước thì nó cũng đồng thời đem đến những thời cơ và thách thức cho tất cả các ngành nghề lĩnh vực của quốc gia. Tuy nhiên, các công trình đã công bố chưa đề cập đến những ảnh hưởng này một cách hệ thống và cụ thể. Nhận thức được các vấn đề còn tồn tại chưa được làm sáng tỏ, nghiên cứu sinh chọn đề tài Kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc trong hội nhập quốc tế” làm đề tài nghiên cứu. Đây là đề tài mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.

Đề tài nghiên cứu sinh chọn sẽ tập trung làm rõ những nội dung như sau:

- Một là, làm rõ hơn các khía cạnh lý luận về KTDL ở vùng KTTĐ trong quá trình HNQT dưới góc độ của kinh tế chính trị. Theo đó, luận án sử dụng các phương pháp khoa học làm rõ khái niệm KTDL ở vùng KTTĐ; đặc điểm, nội hàm của KTDL ở vùng KTTĐ trong HNQT; mối quan hệ lợi ích


giữa các chủ thể tham gia hoạt động KTDL, vai trò của KTDL trong HNQT và tác động của HNQT đối với KTDL.

- Hai là, xây dựng các tiêu chí cơ bản để đánh giá hiệu quả của KTDL ở vùng KTTĐ trong HNQT.

- Ba là, nghiên cứu những kinh nghiệm phát triển KTDL trong HNQT ở một số quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Indonesia. Qua đó, rút ra bài học về phát triển KTDL đối với vùng KTTĐ phía Bắc.

- Bốn là, phân tích thực trạng về KTDL ở vùng KTTĐ phía Bắc cả về thành tựu cũng như hạn chế, đặc biệt là mối liên kết giữa các tỉnh/thành phố trong vùng. Từ đó tìm ra nguyên nhân của những bất cập, hạn chế cản trở quá trình phát triển KTDL của vùng để đề xuất các giải pháp phù hợp.


Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ DU LỊCH

Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ


2.1. KINH TẾ DU LỊCH VÀ CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA KINH TẾ DU LỊCH Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

2.1.1. Một số vấn đề chung về kinh tế du lịch

2.1.1.1. Khái niệm về kinh tế du lịch

Lâu nay du lịch không chỉ là hoạt động mang tính chất giải trí đơn thuần mà đã trở thành một ngành kinh tế góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia và vùng, lãnh thổ trên thế giới. Khái niệm KTDL không còn xa lạ trong các môn khoa học nghiên cứu về kinh tế. Tuy nhiên, để hiểu rõ khái niệm này cần phân biệt khái niệm KTDL và du lịch.

- Quan niệm về du lịch

Tại điểm 2, Điều 4, của Luật Du lịch Việt Nam (2005), Du lịch được định nghĩa “là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [48, tr.2].

Như vậy, nội hàm của khái niệm du lịch không bao hàm các nội dung về lợi ích kinh tế hay các quan hệ trao đổi về kinh tế. Du lịch là khái niệm để chỉ hình thức di chuyển tạm thời từ vùng này sang vùng khác, từ nước này sang nước khác mà không thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc của khách du lịch với mục đích tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng.

- Quan niệm về kinh tế du lịch

Kinh tế du lịch là kết quả tất yếu từ quá trình phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) và phân công lao động xã hội đã đạt đến trình độ nhất định. Trước đây, con người thường sinh sống ở địa phương của mình hoặc đi khai hoang, tìm kiếm chỗ ở mới để tiến hành hoạt động lao động sản xuất. Sau


này, khi LLSX phát triển, nhu cầu tham quan, du ngoạn của con người đã nảy sinh, từ đó xuất hiện các hoạt động kinh doanh du lịch và các quan hệ kinh tế trong hoạt động này.

Theo tác giả Nguyễn Thị Hồng Lâm: KTDL là một quan hệ kinh tế trong lĩnh vực cung ứng sản phẩm du lịch, bao gồm các quan hệ ngành, nghề như: kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch và kinh doanh dịch vụ du lịch khác, nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của du khách, đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân doanh nghiệp du lịch [40, tr.36].

Tác giả Nguyễn Đình Sơn lại cho rằng: KTDL là phạm trù phản ánh bước tiến của LLSX trong quá trình tổ chức khai thác các tài nguyên du lịch của đất nước thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán, xuất khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng cho du khách, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển [49, tr.23].

Dưới góc độ nghiên cứu của kinh tế chính trị, tác giả luận án cho rằng: KTDL là một hệ thống phức hợp những quan hệ và hoạt động kinh tế của các chủ thể bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch, khách du lịch và cộng đồng dân cư tại điểm du lịch trong hoạt động tổ chức sản xuất, cung ứng và tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ du lịch với điều kiện nhất định về hạ tầng và tài nguyên du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu của du khách, đem lại lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực cho đất nước, địa phương, tổ chức và cá nhân những người làm du lịch.

Có thể thấy rằng, du lịch và KTDL là hai khái niệm rất khác nhau. Nếu như khái niệm du lịch thiên về các hoạt động tham quan, nghỉ ngơi, giải trí thì KTDL lại mang nội dung của một ngành kinh tế, trong đó có các quan hệ sản xuất, trao đổi, mua bán các sản phẩm và dịch vụ du lịch. Nói cách khác,


KTDL là một ngành kinh tế sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ du lịch nhằm thu được các lợi ích về kinh tế, xã hội.

Như vậy, du lịch với tư cách là một ngành kinh tế, để phát triển ngành kinh tế này cần đảm bảo được một số điều kiện cơ bản như: nguồn nhân lực du lịch; tài nguyên du lịch; thời gian rảnh rỗi và thu nhập của khách du lịch; vai trò quản lý của Nhà nước; môi trường chính trị ổn định, an toàn cho khách du lịch; năng lực quản lý của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch; trình độ phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; trình độ phát triển của các ngành có liên quan; mức độ hội nhập quốc tế của ngành du lịch và quốc gia.

- Quan niệm về vùng

Vùng là một thuật ngữ thông dụng và được định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau. Khoa học địa lý coi vùng là một đơn nguyên địa lý bề mặt của trái đất. Kinh tế học lại hiểu vùng là một đơn nguyên kinh tế tương đối hoàn chỉnh trên phương diện kinh tế. Chính trị học coi vùng là đơn nguyên hành chính thực hiện quản lý hành chính. Xã hội học coi vùng là khu vực tụ cư có đặc trưng xã hội tương đồng của một cộng đồng người, có thể là tương đồng về ngôn ngữ, tôn giáo, dân tộc hoặc văn hóa. Tựu chung lại, nói đến vùng là nói đến một lãnh thổ nhất định.

Theo từ điển tiếng Việt (2016), vùng là phần đất đai, hoặc nói chung là không gian tương đối rộng có những đặc điểm nhất định về tự nhiên hay xã hội, phân biệt với các phần khác ở xung quanh [47].

Như vậy, vùng được hiểu là một lãnh thổ thường được phân chia trong phạm vi một quốc gia dựa trên các yếu tố tương đồng về điều kiện địa lý hoặc lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội hay điều kiện thiên nhiên.

+ Quan niệm về vùng kinh tế

Vùng kinh tế là một lãnh thổ có vị trí địa lý, ranh giới hành chính rõ rệt, trong đó chứa đựng những mối quan hệ qua lại được đo bằng khối lượng hàng hóa thường xuyên sản xuất ra ở nơi đó và những mối quan hệ kinh tế -

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/03/2023