Tăng Khối Lượng Của Bò Lai Hướng Thịt Qua Các Tháng Tuổi


Theo Phocas và Laloe (2004)[117] khối lượng sơ sinh của Charolais, Limousin và Blonde tương ứng 47,1; 39,5 và 46,2 kg. Kết quả về khối lượng sơ sinh trong thí nghiệm thu được ở bò lai F1(Brahman × Lai Sind) và F1(Charolais × Lai Sind) thấp hơn kết quả trên có thể là do tầm vóc hạn chế của đàn bò cái Lai Sind tham gia lai tạo so với các giống bò thịt chuyên dụng. Nghiên cứu của Lê Quang Nghiệp (1984)[36] cho thấy F1(Zebu × Bò

Vàng) có khối lượng sơ sinh 18,10 - 19,01 kg. Vũ Văn Nội (1994)[39] cho

thấy F1 Zebu; F1 Charolais; F1 Brown Swiss có khối lượng sơ sinh tương ứng 20,5; 21,5 và 21,7 kg. Phạm Văn Quyến (2001)[48] cho thấy bò F1 Charolais; F1 Hereford; F1 Simmental và Lai Sind có khối lượng sơ sinh tương ứng 20,25; 20,06 và 19,78 kg. Hoàng Văn Trường (2001)[60] nghiên cứu trên bò F1 Brahman và F2 ¾ Brahman cho khối lượng sơ sinh tương ứng 21,2 kg và 20,8 kg. Kết quả về khối lượng sơ sinh của các cặp lai trong thí nghiệm cao hơn các nghiên cứu của các tác giả trên có thể do chất lượng đàn bò nền được chọn lọc tốt cùng với chế độ chăm sóc nuôi dưỡng con cái mang thai khá tốt đã phát huy ưu thế về khối lượng của các giống đực chuyên dụng thịt.

Đinh Văn Cải và Cs (2001)[6] tiến hành lai tạo giữa tinh bò đực Charolais, Abondance, Tarentaise với bò Lai Sind cho kết quả khối lượng sơ sinh tương ứng 27,6; 23,2; 23,0 và 21,9 kg. Kết quả thu được về khối lượng sơ sinh của chúng tôi tương đương với bê lai Abondance, Tarentaise còn bê lai F1(Charolais × Lai Sind) thấp hơn. Chase và Cs (2004)[78] cho thấy bê sinh ra từ các công thức lai có mẹ là F1(Brahman × Angus), F1(Senepol × Angus), F1(Tuli × Angus) với bò đực Angus cho khối lượng sơ sinh tương ứng 28,0; 32,10 và 28,50 kg nhưng khi cho phối lần kế tiếp với bò đực Charolais cho khối lượng sơ sinh tương ứng 34,90; 38,40 và 35,90 kg. Giống bò đực khác nhau có ảnh hưởng nhất định tới khối lượng sơ sinh của con lai.


Freetly và Cundiff (1998)[94] nhận thấy khối lượng sơ sinh của bê F1 Brahman ngang bằng với khối lượng sơ sinh của F1 Tuli, nhưng khối lượng cai sữa, tăng trọng tuyệt đối ở bê F1 Brahman lớn hơn.

Theo Dhuyvetter và Cs (2007)[83] khối lượng sơ sinh của bê Charolais và Limousin tương ứng là 38,4 và 35,8 kg. Khối lượng sơ sinh của bê lai hướng thịt trong thí nghiệm nhỏ hơn và thiên về hướng bò Charolais. Khối lượng sơ sinh cao có liên quan tới giống đực tham gia lai tạo.

Đinh Văn Cải (2006)[7] cho thấy khối lượng bê Drought Master nuôi ở các địa phương khác nhau cho kết quả từ 19,9 kg đến 27,2 kg. Đinh Văn Tuyền và Cs (2008)[61] cho kết quả khối lượng sơ sinh của bê Brahman và bê Droughtmaster là 21,6 và 20,7kg. Chế độ dinh dưỡng và chăm sóc nuôi dưỡng bò cái mang thai là một vấn đề quan trọng liên quan tới khối lượng sơ sinh của bê lai. Khối lượng sơ sinh là một tính trạng có hệ số di truyền cao song nó cũng là một tính trạng chịu sự tác động của các yếu tố ngoại cảnh như chế độ chăm sóc nuôi dưỡng bò mẹ mang thai. Vì vậy cùng một giống đực nhưng trong điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng bò cái mang thai kém sẽ cho khối lượng sơ sinh thấp.

Burrow (1991)[76] cho thấy khối lượng sơ sinh của bê lai phụ thuộc vào các giống tham gia lai giống. Ở bê AX (½ Africander, ¼ Hereford, ¼ Shorthorn); AXBX (¼ Africander, ¼ Brahman, ¼ Hereford, ¼ Shorthorn); BX (½ Brahman,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 170 trang tài liệu này.

¼ Hereford, ¼ Shorhorn); HS(½ Hereford, ½ Shorthorn) và Brahman cho khối lượng sơ sinh tương ứng: 34,4; 34,5; 31,8; 32,9; 30,9 kg.

Giai đoạn 6 tháng tuổi khối lượng của bê cái Lai Sind đạt khối lượng 84,46 kg; F1(Brahman × Lai Sind) 99,65 kg và F1(Charolais × Lai Sind) 107,88 kg tương ứng ở bê đực 87,84; 109,96 và 116,47kg, tính trung bình đạt 86,15; 104,80kg và 112,18 kg. Bê F1(Brahman × Lai Sind), F1(Charolais × Lai Sind) lớn hơn bê Lai Sind 21,65%; 30,21%, sai khác có ý nghĩa (P<0,05).

Khả năng sinh trưởng, sản xuất thịt của bò lai sind, F1 brahman × lai sind và F1 charolais × lai sind nuôi tại Đăk Lăk - 9


Bê F1(Charolais × Lai Sind) nặng hơn bê F1(Brahman × Lai Sind) 7,04%, sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Hệ số biến động của tính trạng 8,38% - 11%. Hệ số biến động của các nhóm bê lai trong giai đoạn này thấp, khối lượng bê lúc 6 tháng tuổi khá đồng đều. Ưu thế về khối lượng lúc 6 tháng tuổi thuộc về bê F1(Charolais × Lai Sind) đã thể hiện rõ ưu thế về sinh trưởng so với F1(Brahman × Lai sind) và Lai Sind.

Khối lượng cai sữa là tính trạng có hệ số di truyền cao, khối lượng cai

sữa phản ánh chất lượng giống. Giống khác nhau có khối lượng cai sữa khác nhau. Nguyễn Văn Thiện (1995)[54] cho biết hệ số di truyền khối lượng cai sữa ở bò thịt 30 - 51%. Theo Phocas và Laloe (2004)[117] hệ số di truyền của tính trạng khối lượng cai sữa ở bò Charolais, Limousin, Blonde tương ứng 0,13; 0,29 và 0,32. Splan và Cs (2002)[130] cho thấy khối lượng cai sữa của bê sinh ra từ bò cái F1 Hereford, F1 Angus, F1 Brahman với bò đực Simmental cho khối lượng cai sữa (205 ngày) 183,10 kg. Chase và Cs (2004)[78] cho biết khối lượng cai sữa phụ thuộc vào phẩm chất giống của con đực. Bê lai sinh ra từ bò cái F1(Brahman × Angus), F1(Senepol × Angus) và F1(Tuli × Angus) với bò đực Angus tương ứng 213 kg; 194,9 kg và 191,5 kg, nhưng khi thay đổi bằng bò đực giống Charolais cho khối lượng cai sữa tương ứng 268,9; 245 và 233,4kg. Giống bò đực có ảnh hưởng nhất định đối với khối lượng của bê cai sữa. Dhuyvetter và Cs (2007)[83] cho thấy khối lượng cai sữa (205) ngày, bê sinh ra từ bò đực Charolais và Limousin với bò cái lai đạt khối lượng tương ứng 231,20 và 222,2 kg. Chất lượng giống bò đực có ảnh hưởng nhất định trong việc cải tiến tăng trọng của con lai. Bê lai F1(Brahman × Lai Sind) và F1(Charolais × Lai Sind) trong thí nghiệm có khối lượng cai sữa thấp hơn so với các kết quả lai tạo giữa các giống bò chuyên sản xuất thịt của các tác giả trên. Vấn đề đặt ra là cần phải nâng cao chất lượng đàn bò nền, cần cải tiến chế độ chăm sóc nuôi dưỡng đối với bò cái


nuôi con để đảm bảo nguồn sữa cung cấp cho bê trong thời kỳ bú sữa, nhằm phát huy tác dụng của các tính trạng tăng trọng mới hình thành ở bê lai.

Đinh Văn Cải và Cs (2001)[6] cho thấy khối lượng lúc 6 tháng tuổi F1 Charolais, F1 Abondance, F1 Tarentaise và Lai Sind tương ứng 109,6 kg; 97 kg; 95,3 kg và 91 kg. Phạm Văn Quyến (2001)[48] nghiên cứu trên F1 Charolais, F1 Hereford, F1 Simmental và Lai Sind lúc 6 tháng có khối lượng tương ứng 91,75; 88,63; 84,14 và 81,13 kg. Nguyễn Văn Thưởng và Cs (1995)[57] cho kết quả bê 6 tháng F1 Zebu; F1 Brown Swiss; F1 Charolais và F1 Santa Gertrudis đạt khối lượng tương ứng 94,5; 98; 96 và 90 kg. Lê Viết Ly và Cs (1995)[27] cho thấy F1 Chrolais, F1 Limousine, F1 Hereford, F1 Simmental, F1 Santa Gertrudis và F1 Red Sindhi có khối lượng lúc 6 tháng tương ứng 91,10; 88,6; 82,7; 69,3; 76,31 và 80 kg. Nguyen Kim Duong và Cs (1995)[87] nghiên cứu trên bò địa phương, F1 Red Sindhi, F1 Charolais, F1 Hereford, F1 Limousine cho khối lượng cai sữa tương ứng 52 kg; 80 kg; 91 kg; 89 kg; 84 kg. Kết quả khối lượng cai sữa của bê F1(Brahman × Lai Sind) và bê F1(Charolais × Lai Sind) của chúng tôi cao hơn so với các công thức lai của các tác giả trên. Trong quá trình thực hiện chương trình lai giống, bò cái nền được chọn lọc kỹ và được nuôi với chế độ bổ sung thức ăn tinh cho bò mẹ nuôi con đã có những tác động tốt đối với quá trình sinh trưởng của bê bú sữa mẹ.

Giai đoạn 6 - 9 tháng tuổi bê lai hướng thịt có quá trình tăng trưởng chậm lại: Lai Sind 109,56 kg; F1(Brahman × Lai Sind) 129,57 kg và F1(Charolais × Lai Sind) 136,89 kg. Quá trình sinh trưởng của bê giai đoạn này chậm lại so với thời kỳ trước đó do thời kỳ sau cai sữa, hệ tiêu hóa chất xơ của bê hoạt động chưa hoàn thiện, trong khi đó nguồn dinh dưỡng có chất lượng cao được cung cấp từ sữa mẹ không còn. Bê Lai Sind, F1(Brahman × Lai Sind) và F1(Charolais × Lai Sind) nuôi theo dõi trong thời kỳ này có khối lượng tương ứng 114,03; 139,15 và 145,98 kg. Khối lượng bê nuôi theo dõi


vượt bê nuôi trong nông hộ 4,64 - 7,39%, sai khác có ý nghĩa (P<0,05). Quá trình tăng trưởng trong giai đoạn này chậm lại có thể do nguyên nhân thiếu dinh dưỡng do quá trình tiêu hóa chất thô xanh chưa hoàn thiện. Bổ sung thức ăn giàu dinh dưỡng cho bê sau cai sữa là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức nhằm làm giảm stress về dinh dưỡng đối với bê lai hướng thịt, thúc đẩy quá trình sinh trưởng là ưu thế mới hình thành ở bê lai hướng thịt.

Giai đoạn 12 tháng tuổi bê Lai Sind; F1(Brahman × Lai Sind); F1(Charolais × Lai Sind) nuôi trong nông hộ đạt khối lượng 136,95; 159,67 và 168,45 kg. Giai đoạn này F1(Brahman × Lai Sind) vượt Lai Sind 16,59%; F1(Charolais × Lai Sind) vượt Lai Sind 23,03%; F1(Charolais × Lai Sind) vượt F1(Brahman × Lai Sind) 5,50%, sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Bò nuôi theo dõi đạt khối lượng lần lượt là 144,38; 172,13 và 185,33kg. F1(Brahman × Lai Sind) vượt Lai Sind 19,22%; F1(Charolais × Lai Sind) vượt Lai Sind 28,36%, F1(Charolais × Lai Sind) vượt F1(Brahman × Lai Sind) 7,67%, sai khác có ý nghĩa (P<0,05). Bò nuôi theo dõi vượt bò nuôi trong nông hộ khá cao 5,43 - 7,80%, sai khác có ý nghĩa (P<0,05). Giai đoạn này bê lai hướng thịt có quá trình sinh trưởng hồi phục khá nhanh sau khi cai sữa. Chế độ chăm sóc nuôi dưỡng đã tác động tốt đối với tính trạng sinh trưởng cao của bò lai hướng thịt, đặc biệt F1(Charolais × Lai Sind) đạt khối lượng cao 185,33 kg.

Lê Viết Ly và Vũ Văn Nội (1995)[27] cho thấy F1 Charolais lúc 12 tháng tuổi nuôi chăn thả là 121 kg, nuôi có bổ sung thức ăn tinh đạt 173 kg, tương ứng bê F1 Hereford đạt 126,9; 145,8 kg; bê F1 Simmental 130 và 168 kg. Đinh Văn Cải và Cs (2001)[6] cho thấy bê F1 Charolais lúc 12 tháng đạt khối lượng 164,6 kg, F1 Abondance 139 kg; bê F1 Tarentaise 142,5 kg và bê Lai Sind 126,5 kg. Phạm Văn Quyến (2001)[48] cho thấy F1 Charolais đạt 150,75 kg; F1 Hereford 142,63 kg; F1 Simmental 138,86 kg và Lai Sind 114,75 kg.


Giai đoạn 18 tháng tuổi khối lượng bò lai đạt được ở giai đoạn này khá cao: Lai Sind đạt 196,99 kg; F1(Brahman × Lai Sind) 224,82 kg và F1(Charolais × Lai Sind) đạt 247,03 kg. Bò nuôi theo dõi đạt tương ứng 212,25; 246,88 và 275,75 kg. Bò F1(Brahman × Lai Sind) nuôi theo dõi có khối lượng vượt bò Lai Sind 6,32%, F1(Charolais × Lai Sind) vượt Lai Sind 29.92%, sai khác có ý nghĩa (P<0,05). Bò F1(Brahman × Lai Sind) và F1(Charolais × Lai Sind) nuôi theo dõi có khối lượng cao hơn nuôi trong nông hộ tương ứng 9,81% và 11,63%, sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Bò F1(Charolais × Lai Sind) trong điều kiện nuôi dưỡng của nông hộ, chế độ dinh dưỡng có cải tiến song vẫn còn những hạn chế nhất định, sinh trưởng chỉ tương đương với F1(Brahman × Lai Sind) nhưng trong điều kiện nuôi theo dõi chế độ dinh dưỡng khá hơn bò F1(Charolais × Lai Sind) đã thể hiện được ưu thế của giống bố chuyên sản xuất thịt.

Các nghiên cứu của Lê Viết Ly và Vũ Văn Nội (1995)[27] cho thấy ở giai đoạn 18 tháng tuổi bò F1 Charolais, F1 Limousine, F1 Hereford, F1 Simmental, F1 Santa Gertrudis và F1 Red Sindhi nuôi chăn thả đạt 161; 134; 150,5; 178,9; 153,3 và 140,2 kg nhưng trong điều kiện chăn nuôi có bổ sung thức ăn tinh, bò lai trên đạt tương ứng 232; 170; 250,5; 183,3 và 156,1 kg. Trong cùng một kiểu di truyền, nhưng quá trình chăm sóc nuôi dưỡng, chế độ dinh dưỡng khác nhau sẽ tác động theo các xu hướng khác nhau. Đối với bò lai hướng thịt, trong điều kiện chăn thả tự do, nguồn dinh dưỡng trên đồng cỏ không đảm bảo cho quá trình sinh trưởng cao. Do vậy việc bổ sung dinh dưỡng sẽ tạo điều kiện cho con lai phát huy tác dụng tăng khối lượng - ưu thế của giống bố.

Fordyce và Cs (1993)[91] cho thấy bò lai 3/4 Bos indicus khối lượng tăng nhanh ở giai đoạn 12 - 18 tháng tuổi, con cái đạt 228 kg, con đực đạt 281 kg tương ứng tăng trưởng tuyệt đối đạt 0,37 và 0,49 kg.


Nghiên cứu của Phạm Văn Quyến (2001)[48] cho thấy lúc 18 tháng tuổi bò F1 Charolais có khối lượng 292,50 kg; F1 Hereford 277,88 kg; F1 Simmental 209,86 kg và bò Lai Sind 196,88 kg.

Kết quả thu được về khối lượng ở giai đoạn 18 tháng tuổi của bò F1(Brahman × Lai Sind) và F1(Charolais × Lai Sind) nuôi trong nông hộ và nuôi theo dõi đều cao hơn kết quả của Lê Viết Ly và Vũ Văn Nội (1995)[27] nuôi tại Hà Tam. F1(Charolais × Lai Sind) trong thí nghiệm này thấp hơn so với nghiên cứu của Phạm Văn Quyến nuôi tại Bến Cát - Bình Dương. Các tác giả trên đều có chung nhận xét F1 Charolais có tăng trọng cao hơn so với các cặp lai hướng thịt khác, nhất là trong điều kiện được bổ sung thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao.

Giai đoạn 24 tháng tuổi sinh trưởng của bò Lai Sind có khối lượng 227,87 kg; F1(Brahman × Lai Sind) 274,19 kg và F1(Charolais × Lai Sind) 302,15 kg. Bò nuôi theo dõi đạt tương ứng 265,98; 311,48 và 332,83kg. F1(Brahman × Lai Sind) vượt Lai Sind 20,33%, sai khác có ý nghĩa (P<0,05). F1(Charolais × Lai Sind) vượt Lai Sind 32,60%, sai khác có ý nghĩa (P<0,05). F1(Charolais × Lai Sind) vượt F1(Brahman × Lai Sind) 10,20%, sai khác có ý nghĩa (P<0,05). Bò nuôi theo dõi có khối lượng cao hơn bò nuôi trong nông hộ F1(Brahman × Lai Sind) 13,62% và F1 (Charolais × Lai Sind) 10,15%, sai khác giữa hai phương thức nuôi có ý nghĩa (P<0,05). Bổ sung thức ăn là một yêu cầu cần được thực hiện khi tiến hành nuôi bò lai hướng thịt.

Các nghiên cứu của Lê Quang Nghiệp (1984)[36] cho thấy bò F1(Zebu

× bò Vàng) và F1(Red Sindhi × bò Vàng) lúc 24 tháng tuổi, bò cái lai có khối lượng 198,05 và 182,06 kg, tương ứng ở bò đực đạt 213,50 kg và 199 kg. Phạm Thế Huệ (1997)[23] cho thấy F1(Red Sindhi × Lai Sind) lúc 24 tháng nuôi tại Đăk Lăk đạt khối lượng 223,67 kg. Nguyễn Tiến Vởn (1984)[63]


nghiên cứu trên bò F1(Holstein × Bò Nghệ An), F1(Zebu × Bò Nghệ An), F1(Brown Swiss × Bò Nghệ An), F1(Red Sindhi × Bò Nghệ An) lúc 24 tháng tuổi cho kết quả tương ứng là: 180,80; 188,5; 199; 190 kg/con. Nguyen Kim Duong và Cs (1995)[87] nghiên cứu trên bò F1(Red Sindhi × Bò Vàng) lúc 18 và 24 tháng tuổi có khối lượng 170 và 208 kg. Vũ Văn Nội (1994)[39] cho thấy F1 Charolais có khối lượng vượt Lai Sind vỗ béo 13% và cao hơn Lai Sind nuôi đại trà 57%. Hoàng Văn Trường (2001)[60] nghiên cứu trên bò F1 Brahman ở Bình Định cho kết quả lúc 24 tháng tuổi đạt 217 kg tương ứng bò

4

F2 3 Brahman đạt 243 kg. Kết quả khối lượng của bò lai hướng thịt trong thí


nghiệm lúc 24 tháng tuổi cao hơn so với các nghiên cứu của các tác giả trên, đặc biệt là nhóm bò lai hướng thịt nuôi theo dõi.

3.1.1.2 Tăng khối lượng của bò lai hướng thịt qua các tháng tuổi

Sinh trưởng tuyệt đối là một chỉ tiêu hết sức quan trọng đối với gia súc cho thịt, phản ánh khả năng sinh trưởng của bò. Thông qua chỉ tiêu tăng trọng tuyệt đối có thể đánh giá khả năng sinh trưởng, hiệu quả của phương thức nuôi dưỡng cũng như tiềm năng cho thịt của phẩm giống. Sinh trưởng tuyệt đối tuân theo quy luật sinh trưởng theo giai đoạn. Để đề xuất các biện pháp kỹ thuật phù hợp cho nuôi dưỡng bò lai, chúng tôi tiến hành theo dõi, phân tích tăng trọng hàng ngày của các nhóm bò lai hướng thịt. Tăng trưởng của bò phụ thuộc vào từng phẩm giống. Phẩm giống chuyên sản xuất thịt có cường độ sinh trưởng cao, trong một thời gian ngắn cho khối lượng thịt lớn.

Kết quả theo dõi về tăng trọng tuyệt đối của bò Lai Sind; F1(Brahman × Lai Sind) và F1(Charolais × Lai Sind) từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi được trình bày ở bảng 3.2a; 3.2b.

Số liệu ở bảng 3.2a; 3.2b cho thấy bò Lai Sind, F1(Brahman × Lai Sind) và F1(Charolais × Lai Sind) nuôi trong nông hộ và nuôi theo dõi có tăng trọng

Xem tất cả 170 trang.

Ngày đăng: 10/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí