Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Phát Triển Du Lịch‌


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH‌

1.1. Cơ sở lý luận‌

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về du lịch

a. Khái niệm du lịch

Du lịch đã và đang ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia; là bộ phận cấu thành đời sống vật chất – tinh thần của con người hiện đại. Hội đồng lữ hành và Du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Council - WTTC) đã công bố du lịch là ngành kinh tế lớn nhất thế giới. Đối với nhiều quốc gia du lịch nhanh chóng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và là nguồn thu ngoại tệ quan trọng. Bởi những lẽ đó, du lịch là một đề tài hấp dẫn và đã trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu. Tuy nhiên, dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát triển với tốc độ rất nhanh như vậy, song do tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, với sự khác biệt về ngôn ngữ và bản chất phức tạp của hoạt động này; cho đến nay nhân thức về nội dung du lịch vẫn chưa thống nhất. Đúng như Giáo sư, Tiến sĩ Berneker – một chuyên gia hàng đầu về du lịch trên thế giới đã nhận định : “ Đối với du lịch có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.

Thuật ngữ “du lịch” trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được La Tinh hóa thành tornus và sau đó thành tourisme (tiếng Pháp), tourism (tiếng Anh) – xuất hiện khoảng năm 1800, mypuzm (tiếng Nga). Trong tiếng Việt, thuật ngữ tourism được dịch thông qua tiếng Hán: Du có nghĩa là đi chơi, lịch có nghĩa là từng trải. Tuy nhiên, người Trung Quốc gọi tourism du lãm với ý nghĩa đi chơi để nâng cao nhận thức [27].

Về khái niệm, có thể thấy sự biến đổi nhận thức thông qua một số khái niệm du lịch tiêu biểu sau đây:

Năm 1930, Glusman (Thụy Sĩ) định nghĩa: Du lịch là sự chinh phục không gian của những người hướng đến những điểm nhất định nhưng không phải là nơi ở thường xuyên của họ. Cho rằng du lịch không chỉ là hiện tượng di chuyển của cư


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

dân mà phải là tất cả những gì có liên quan đế sự di chuyển đó. Năm 1941, Hunziker và Kraff (Thụy Sĩ) cho rằng: Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ [27].

Dưới con mắt các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Tuy nhiên mỗi học giả có những nhận định khác nhau. Các nhà kinh tế du lịch thuộc trường Đại học Kinh tế Praha (Cộng hòa Séc) mà đại diện là Mariot coi : “du lịch là tổng hợp các hoạt động kĩ thuật, kinh tế và tổ chức liên quan đến cuộc hành trình của con người và việc lưu trú của họ ở ngoài nơi ở thường xuyên với nhiều mục đích khác nhau loại trừ mục đích hành nghề và thăm viếng có tổ chức thường xuyên”.

Phát triển du lịch tỉnh Nghệ An giai đoạn 2000 – 2010 - 3

Theo hội đồng trung ương về du lịch của Cộng hòa Pháp 1978, tiêu chí chính để phân biệt giữa hoạt động du lịch và hoạt động giải trí đơn thuần là di chuyển từ 24 tiếng trở lên và động cơ tìm sự vui vẻ. Ở đây du lịch là khái niệm thiên về tiếp cận kinh tế, còn nếu thiên về tiếp cận xã hội thì sẽ có khái niệm giải trí.

Không chỉ các nhà kinh tế, các chuyên gia nghiên cứu về du lịch thuộc lĩnh vực khác như lĩnh vực địa lí cũng thấy yếu tố kinh tế là không thể thiếu được trong khái niệm du lịch. Trong quá trình hoạt động du lịch, thực tế chỉ ra rằng, ngoài tiếp cận cộng đồng mới đảm bảo cho sự phát triển lâu dài. Dựa trên tiếp cận này Michael M. Coltman đã định nghĩa “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của bốn nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch” [29].

Gần đây hơn, trong “Cơ sở địa lí du lịch và dịch vụ tham quan”, với một nội dung chi tiết, nhà đia lí người Bêlarut – Pirojnik đã đưa ra một khái niệm khá hoàn thiện: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian nhàn rỗi liên quan với sự di chuyển và cư trú tạm thời bên ngoài nơi thường trú nhằm mục đích nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức, văn hóa hoặc thể thao, kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ”.


Như vậy, có thể thấy sự biến đổi trong nhận thức về nội dung bản chất của thuật ngữ du lịch. Tựu chung lại, du lịch là một khái niệm bao hàm nội dung kép. Một mặt mang ý nghĩa thông thường là hiện tượng xã hội chỉ việc đi lại của con người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí… Mặt khác, du lịch được nhìn nhận như là hoạt động gắn chặt với kết quả kinh tế - sản xuất, tiêu thụ do chính nó tạo ra.

b. Khách du lịch

Khái niệm “Khách du lịch” hay “Du khách”, xuất hiện lần đầu tiên tại Pháp vào cuối thế kỉ XVIII. Tới nay đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về khách du lịch. Theo tổ chức Du lịch thế giới, khách du lịch là những người có các đặc trưng:

- Là người đi khỏi nơi cư trú của mình

- Không theo đuổi mục đích kinh tế

- Đi khỏi nơi cư trú từ 24 giờ trở lên

- Khoảng cách tối thiểu từ nhà đến điểm đến tùy theo quan niệm của từng nước [28].

Điểm chung nhất đối với các nước trong cách hiểu khái niệm về khách du lịch là: Khách du lịch là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến một nơi nào đó, quay trở lại với mục đích khác nhau, loại trừ mục đích làm công và nhận thù lao ở nơi đến; có thời gian lưu lại ở nơi đến từ 24 giờ trở lên (hoặc có sử dụng dịch vụ lưu trú qua đêm) nhưng không quá thời gian một năm. Khách du lịch là những người tạm thời ở tại nơi họ đến du lịch với các mục tiêu như nghỉ ngơi, kinh doanh, hội nghị hoặc thăm gia đình.

Khách du lịch được phân chia làm 2 nhóm cơ bản: khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa.

* Khách du lịch quốc tế

Tại hội nghị Liên hiệp quốc về du lịch được tổ chức ở Roma (Ý) năm 1963, Ủy ban thống kê của Liên hợp quốc đưa ra khái niệm khách du lịch quốc tế: là người thăm viếng một số nước khác ngoài nơi cư trú của mình với bất kỳ lí do nào ngoài mục đích hành nghề để nhận thu nhập từ nước được viếng thăm.


Khái niệm khách viếng thăm quốc tế bao gồm hai thành phần: khách du lịch quốc tế (International tourist) – là người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian ít nhất là 24 giờ (hoặc sử dụng ít nhất một tối trọ). Và khách tham quan quốc tế (International excursionist) – là người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian ít hơn 24 giờ (hoặc là không sử dụng một tối trọ nào).

* Khách du lịch nội địa:

Định nghĩa khách du lịch nội địa sớm nhất được nêu ra vào năm 1957 và 1958. Lúc bấy giờ cuộc hội thảo di Cục du lịch của chính phủ Canada cùng Hội liên hợp tổ chức du lịch chính phủ quốc tế cùng triệu tập và hội nghị của nhóm chuyên gia thống kê du lịch tổ chức ở Madrid quy định khách nội địa là: “Bất cứ ai cư trú ở một nước (không xét tới quốc tịch) tới một nơi nào đó ngoài nơi người đó cư trú ở trong nước người đó để tiến hành du lịch không dưới 24 giờ hoặc không dưới một đêm, mà mục đích lữ hành không phải là các hoạt động thăm viếng theo đuổi để có thù lao”[5]. Tuy nhiên, khái niệm khách du lịch nội địa được xác định không giống nhau ở các nước khác nhau về khoảng cách chuyến đi và thời gian lưu trú.

c. Tài nguyên du lịch

* Khái niệm tài nguyên du lịch

Theo Pirojnik (Cơ sở địa lí du lịch và dịch vụ tham quan), du lịch là một ngành định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung, khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn liền với khái niệm du lịch. Theo Luật du lịch Việt Nam năm 2005, khoản 4, điều 4, chương I: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch,

tuyến du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch”.

Theo Nguyễn Minh Tuệ: “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục và phát triển thể lực, trí tuệ của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này


được sử dụng trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất dịch vụ du lịch”[19].

* Đặc điểm tài nguyên du lịch

- Tính phong phú và đa dạng: Đặc điểm này là cơ sở để tạo nên sự phong phú của sản phẩm du lịch, thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch.

- Sự kết hợp giữa giá trị hữu hình và vô hình: Tài nguyên du lịch không chỉ có giá trị vật chất là phương tiện hữu hình, hình thành nên các sản phẩm du lịch, mà còn chứa đựng những giá trị vô hình. Giá trị này được thể hiện qua sự cảm nhận, cảm xúc tâm lý và sự thỏa mãn nhu cầu của du khách, đồng thời còn được thể hiện qua kênh thông tin mà khách du lịch nhận được về sản phẩm.

- Tính dễ khai thác: hầu hết các tài nguyên du lịch vốn đã có sẵn trong tự nhiên hoặc do con người tạo nên. Do đó, chỉ cần đầu tư không lớn đã có thể tôn tạo, tăng them vẻ đẹp và tạo ra điều kiện thuận lợi nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên này.

- Tính thời vụ: Thời gian có thể khai thác và thời điểm khai thác các loại tài nguyên thường không giống nhau và thay đổi trong năm tùy thuộc chủ yếu bởi yếu tố khí hậu và tập quán dân gian. Điều này đã chi phối và quyết định tính mùa trong du lịch.

- Tính bất biến về mặt lãnh thổ: đối với sản phẩm được tạo ra từ loại tài nguyên du lịch này thì du khách phải đến tận nơi để tận hưởng và thưởng thức; tạo nên lực hút cơ sở hạ tầng, dòng du lịch tập trung đến loại tài nguyên đó và là thế mạnh đặc trưng của từng địa phương.

- Khả năng sử dụng nhiều lần: nếu tuân theo các quy luật tự nhiên, sử dụng hợp lý và áp dụng những biện pháp bảo vệ chung thì tài nguyên du lịch là một loại tài nguyên có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài.

* Phân loại tài nguyên du lịch

Để khai thác hợp lí và có hiệu quả tài nguyên du lịch theo hướng bền vững cần tiến hành phân loại tài nguyên du lịch một cách phù hợp và mang tính khoa học. Hiện nay có rất nhiều cách phân loại khác nhau của nhiều tác giả và các cơ quan nghiên cứu du lịch ở nước ta cũng như quốc tế. Sau đây là một vài cách phân loại:


- Tổ chức du lịch Thế giới (UNWTO,1997) đã xây dựng hệ thống phân loại tài nguyên du lịch thành 3 loại, 9 nhóm gồm: loại cung cấp tiềm tang (gồm 3 nhóm: văn hóa kinh điển, tự nhiên kinh điển, vận động); loại cung cấp hiện đại (gồm 3 nhóm: đường sá, thiết bị, hình tượng tổng thể) và loại tài nguyên kĩ thuật (gồm 3 nhóm tính năng: hoạt động du lịch, cách thức và tiềm lực khu vực).

- Ở nước ta, cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, một số tác giả (Vũ Tuấn Cảnh, Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ, Đặng Duy Lợi, Phạm Trung Lương…) trong quá trình đánh giá tài nguyên du lịch Việt Nam đã phân chúng thành hai nhóm:

Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm: địa hình, khí hậu; nguồn nước; sinh vật. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm: các di tích văn hóa lịch sử; các lễ hội;

các đối tượng gắn với dân tộc học; các đối tượng văn hóa thể thao và hoạt động nhận thức khác [19].

d. Sản phẩm du lịch

* Khái niệm sản phẩm du lịch

Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, hợp thành bởi nhiều bộ phận kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu phong phú, đa dạng của du khách trong chuyến du lịch. Do đó, sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách; được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực là: cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó [29].

Sản phẩm du lịch = Dịch vụ du lịch + Tài nguyên du lịch

Trong đó, tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Còn dịch vụ du lịch, xét dưới góc độ là quá trình tiêu dùng của khách du lịch, có thể được tổng hợp theo các nhóm cơ bản sau:

- Dịch vụ vận chuyển: Du lịch gắn với những chuyến đi và sự di chuyển nên không thể thiếu loại dịch vụ này. Nó bao gồm việc đưa khách đến điểm du lịch và di chuyển trong phạm vi điểm đến.


- Dịch vụ lưu trú, ăn uống: cơ sở thuê buồng, giường phục vụ hoạt động nghỉ ở lại và ăn uống – loại nhu cầu không thể thiếu của du khách. Đây là hoạt động kinh doanh đáng kể trong du lịch.

- Dịch vụ tham quan, giải trí: là một bộ phận quan trọng tạo nên sự hấp dẫn, thu hút và lôi kéo khách du lịch. Đảm bảo cho khách du lịch sử dụng tối ưu thời gian rỗi và tăng thu nhập cho nhà kinh doanh du lịch.

- Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm: đây cũng là hoạt động tăng tính hấp dẫn, để lại dấu ấn cho sản phẩm du lịch và là nhu cầu không thể thiếu của nhiều du khách.

- Ngoài ra, còn có các dịch vụ trung gian và dịch vụ bổ sung, bao gồm:

+ Dịch vụ thu gom, sắp xếp các dịch vụ riêng lẻ thành một sản phẩm du lịch. Thể hiện qua việc các cơ sở mua lại những dịch vụ khác nhau, sắp xếp, phối hợp chúng thành một chương trình du lịch trọn gói hoặc đơn giản.

+ Dịch vụ bán lẻ sản phẩm du lịch: cung cấp thông tin và bán lẻ các sản phẩm du lịch cho khách du lịch.

* Đặc trưng cơ bản của sản phẩm du lịch

- Sản phẩm du lịch có tính tổng hợp: nó kết hợp các loại dịch vụ do nhiều đơn vị cá nhân, thuộc các ngành khác nhau cung cấp.

- Sản phẩm du lịch chủ yếu tồn tại ở dạng vô hình: tuy sản phẩm du lịch bao gồm cả yểu tố hữu hình và vô hình, nhưng yếu tố hữu hình là hàng hóa chiếm tỉ trọng nhỏ, trong khi yếu tố vô hình là dịch vụ thường chiếm 80 – 90% về giá trị. Do đó, việc đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch rất khó khăn, thường mang tính chủ quan và phụ thuộc vào khách du lịch.

- Sản phẩm du lịch thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch. Do đó, không thể đưa sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch, mà thực tế buộc khách du lịch phải đến nơi có sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình.

- Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các sản phẩm du lịch trùng nhau về không gian và thời gian. Không bán được cũng có nghĩa là không thể lưu kho và hầu như không còn giá trị, do đó phần lớn sản phẩm du lịch tự tiêu hao.


- Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không diễn ra đều đặn mà có thể tập trung vào thời gian nhất định, tạo nên tính mùa trong hoạt động kinh doanh du lịch.

- Sản phẩm du lịch không có tính đồng nhất: các nhân viên không thể tạo ra những sản phẩm như nhau trong những thời gian làm việc khác nhau. Khách du lịch khác nhau trong những thời gian, bối cảnh khác nhau cũng có những cảm nhận khác nhau về sản phẩm du lịch [19].

e. Các loại hình du lịch

Có nhiều cách phân loại các loại hình du lịch tùy theo tiêu chí khác nhau, các chuyên gia du lịch Việt Nam thường phân chia theo các tiêu chí cơ bản sau [19]:

- Theo nhu cầu của khách: du lịch chữa bệnh, nghỉ ngơi, thể thao, văn hóa, công vụ, tôn giáo, thăm hỏi…

- Theo phạm vi lãnh thổ: du lịch nội địa, du lịch quốc tế.

- Theo vị trí địa lí các cơ sở du lịch: du lịch nghỉ biển, nghỉ núi.

- Theo việc sử dụng các phương tiện giao thông: du lịch xe đạp, máy bay, ô tô, tàu thủy, tàu hỏa.

- Theo thời gian của cuộc hành trình: du lịch ngắn ngày, dài ngày.

- Theo lứa tuổi: du lịch thanh niên, thiếu niên, gia đình.

- Theo hình thức tổ chức: du lịch có tổ chức, cá nhân.

1.1.2. Chức năng của du lịch‌

a. Chức năng xã hội

Chức năng xã hội của du lịch thể hiện trước hết ở chỗ, du lịch tạo ra nhiều công ăn việc làm và là công cụ giảm nghèo khá hiệu quả. Du lịch là ngành thu hút lao động rất lớn. Theo thống kê của UNWTO, lao động trực tiếp và gián tiếp phục vụ du lịch hiện chiếm hơn 10,7% tổng lao động trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, hàng năm, ngành du lịch tạo ra them 15.000 – 20.000 chỗ làm việc trực tiếp trong các khách sạn, nhà hàng và các cơ sở dịch vụ du lịch. Với sự phát triển của du lịch, dân cư có nhiều cơ hội tìm việc làm ngay tại địa bàn mình sinh sống với thu nhập cao, và cũng có nhiều cơ hội được đào tạo nghề, được hưởng thụ hạ tầng kỹ thuật tốt.

Xem tất cả 168 trang.

Ngày đăng: 07/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí