được tính chất nghiêm trọng của nợ quá hạn. Trước hết phải thẩm tra lại và thu thập thêm thông tin về doanh nghiệp xin vay. Sau đó tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của khoản nợ quá hạn mà chi nhánh có những cách xử lý khác nhau. Cụ thể:
Với những trường hợp nợ quá hạn tính chất không quá nghiêm trọng, chi nhánh có thể sử dụng biện pháp điều chỉnh tình huống, bảo vệ lợi ích của mình. Có thể sử dụng một số biện pháp sau:
-Tư vấn cho doanh nghiệp nhằm khôi phục SXKD: Các CBTD và doanh nghiệp cần phải trao đổi bàn bạc với nhau về vấn đề doanh nghiệp đang gặp phải. Cùng tìm ra những nguyên nhân, những khó khăn, những việc làm chưa hiệu quả. Từ đó chi nhánh có thể đưa ra những lời khuyên cho doanh nghiệp như: Cách tổ chức quản lý, sử dụng vốn, quản lý hàng tồn kho, vận hành máy móc trang thiết bị vào sản xuất,... so cho hợp lý và hiệu quả hơn.
-Giảm bớt kế hoạch mở rộng SXKD: Nếu việc việc mở rộng SXKD của doanh nghiệp còn chưa tương xứng với khả năng, kinh nghiệm quản lý, nguồn lực tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại thì chi nhánh cần phải khuyên doanh nghiệp thu hẹp lại quy mô sản xuát, tiết kiệm chi phí và tập trung vào những thế mạnh của doanh nghiệp, tránh đầu tư dàn trải và kém hiệu quả.
-Gia hạn nợ cho các doanh nghiệp: Đây là hình thức xử lý chủ yếu đối với các doanh nghiệp có nợ quá hạn tại chi nhánh Vietcombank Thành Công hiện nay. Gia hạn nợ là việc thương lượng giữa doanh nghiệp và chi nhánh về việc xin lùi thời hạn trả nợ của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định do việc doanh nghiệp gặp khó khăn nên không thể trả nợ gốc và lãi đúng hạn trong hợp đồng ký kết ban đầu. Gia hạn nợ giúp cho doanh nghiệp tránh khỏi việc kiện tụng pháp lý, duy trì được uy tín trong hoạt động SXKD của mình. Khi áp dụng biện pháp này có thể giúp cho chi nhánh thu hồi được đầy đủ khoản cho vay sau này khi doanh nghiệp khôi phục hoạt động SXKD. Việc gia hạn nợ phải có sự thỏa thuận giữa doanh nghiệp và chi nhánh, khi đó doanh nghiệp sẽ phải đưa ra một kế hoạch trả nợ chi tiết. Chi nhánh nên tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có thời gian tích lũy khoản tiền để trả nợ.
Nếu các biện pháp trên vẫn chưa mang lại hiệu quả thì chi nhánh có thể áp dụng những biện pháp cứng rắn hơn để xử lý nợ nhằm bảo vệ quyền lợi của mình:
-Tiến hành xử lý các TSĐB: Nếu khoản nợ của doanh nghiệp thuộc nhóm 3 trở đi thì CBTD cần đến gặp trực tiếp doanh nghiệp, tìm hiểu thông tin và đánh giá lại khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Sau đó yêu cầu doanh nghiệp hợp tác trong công tác chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng, chi nhánh. Khi có sự đồng ý chuyển giao tài sản của doanh nghiệp, chi nhánh sẽ phát mại tài sản và thông báo thông tin phát mại tài sản cho doanh nghiệp cũng như cơ quan chính quyền địa phương. Nếu
trường hợp giá trị TSĐB đem phát mại không đủ thu nợ thì chi nhánh buộc khách hàng doanh nghiệp phải trả tiếp phần còn lại. Ngược lại, TSĐB thanh lý lớn hơn số vốn cần thu hồi thì phải trả lại cho doanh nghiệp.
-Yêu cầu các cơ quan pháp luật vào can thiệp: Áp dụng khi trường hợp doanh nghiệp nợ quá hạn không có thái độ hợp tác với chi nhánh trong việc xử lý khoản vay. Chi nhánh yêu cầu các cơ quan pháp luật như: Tòa án, cơ quan chính quyền địa phương,... để có biện pháp xử lý đảm bảo quyền lợi cho chi nhánh và ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp tại ngân hàng vietcombank chi nhánh thành công - 1
- Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp tại ngân hàng vietcombank chi nhánh thành công - 2
- Thực Trạng Chất Lượng Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Vietcombank Chi Nhánh Thành Công
- Thực Trạng Hoạt Động Cho Vay Trung -Dài Hạn Đối Với Doanh Nghiệp Tại Vietcombank Thành Công
- Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp tại ngân hàng vietcombank chi nhánh thành công - 5
Xem toàn bộ 55 trang tài liệu này.
3.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Con người luôn là nhân tố quyết định đến sự thành công của một tổ chức. Để có một khoản cho vay trung-dài hạn đối với doanh nghiệp có chất lượng thì yếu tố trước tiên thuộc về nhân viên CBTD. Họ phải là người am hiểu doanh nghiệp, hiểu biết sâu sắc thực lực tài chính, khả năng thanh toán của doanh nghiệp kể cả hiện tại và tương lai, xác định được tiềm năng cũng như triển vọng của doanh nghiệp và dự báo được những biến động trong tương lai. Bên cạnh đó, CBTD phải hiểu được tâm lý, xem xét được mức độ trung thực của doanh nghiệp đi vay để đảm bảo tính an toàn của khoản cho vay trung-dài hạn. Điều này đòi hỏi CBTD cần có kiến thức, có hiểu biết nhất định về thị trường và lĩnh vực mà doanh nghiệp đang tiến hành đầu tư, kinh doanh. Vì vậy, ngân hàng cần có kế hoạch đào tạo CBTD, sớm thực hiện tiêu chuẩn hóa CBTD, đưa việc nâng cao trình độ trở thành mục tiêu phấn đấu.
-Chuyên môn hóa CBTD: Mỗi CBTD sẽ được giao phụ trách một nhóm doanh nghiệp nhất định, có những đặc điểm chung về ngành nghề kinh doanh hoặc loại hình doanh nghiệp. Việc phân nhóm tùy theo năng lực, sở trường, kinh nghiệm của từng CBTD. Qua đó, CBTD có thể hiểu biết doanh nghiệp một cách sâu sắc, tập trung vào một công việc của mình và giảm chi phí điều tra, tìm hiểu doanh nghiệp, giảm sai sót trong quá trình thẩm định, góp phần nâng cao chất lượng cho vay trung-dài hạn.
-Đào tạo kỹ năng: Chi nhánh đào tạo CBTD theo các kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng điều tra, kỹ năng phân tích, kỹ năng viết, kỹ năng đàm phán… Đào tạo thường xuyên cho cán bộ nhân viên cách thức thực hiện công việc một cách đúng quy trình kĩ thuật, vững chuyên môn ngăn ngừa các trường hợp rủi ro, mất an toàn hệ thống.
- Ngân hàng cần sớm thực hiện tiêu chuẩn hóa CBTD, đưa việc nâng cao trình độ trở thành mục tiêu phấn đấu. Công tác đào tạo cần tập trung theo trọng điểm và đào tạo một cách toàn diện để thực sự có được những cán bộ đủ năng lực và hiểu biết phục vụ yêu cầu công tác, tránh đào tạo tràn lan, lãng phí.
- Chi nhánh cần ưu tiên đào tạo cán bộ chủ chốt trước, sau đó đào tạo cán bộ kế cận. Tuyển chọn những cán bộ trẻ tuổi có đầy đủ năng lực, phẩm chất đạo đức tốt và
nhiệt tình công tác vào hoạt động cho vay trung, dài hạn. Chú trọng đào tạo nâng cao chất lượng hơn là số lượng.
-Nâng cao trình độ, kiến thức nghiệp vụ cho nhân viên: Tổ chức tập huấn đào tạo lại cán bộ hoặc bổ sung kiến thức nghiệp vụ. Các lớp tập huấn không nên tổ chức chung ở một hội trường lớn là nơi mà ai cũng có thể làm việc riêng. Nên tổ chức thành các lớp nhỏ với số lượng trên dưới 10 học viên như vậy sẽ đảm bảo chất lượng hơn. Chi nhánh có thể tạo điều kiện thuận lợi về giờ giấc, học phí …để giúp cán bộ tham gia lớp học nâng cao trình độ. Cán bộ sau khi được chi nhánh cử đi học cũng phải chịu trách nhiệm cụ thể tránh bệnh hình thức, tránh việc ngân hàng, chi nhánh bỏ tiền cho cán bộ đi học nhưng sau khi kết thúc lại không mang lại hiệu quả trong công việc.
Cơ chế đãi ngộ:
- Tổ chức các đợt tham quan, nghỉ mát định kỳ cho cán bộ, nhân viên.
-Có cơ chế thưởng phạt, đãi ngộ hợp lý với CBTD: Các cán bộ, nhân viên có thành tích tốt cần phải được tuyên dương, nhận phần thưởng về vật chất nhằm khuyến khích lao động, phát huy năng lực của các nhân viên khác. Ngươc lại, đối với những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, làm thất thoát vốn, vi phạm cơ chế cần được xử lý nghiêm minh, đặc biệt đối với những cán bộ có hành vi tiêu cực làm ảnh hưởng đến lợi ích của chi nhánh. Tùy theo mức độ có thể áp dụng các hình thúc xử lý như: Chuyển công tác, đình chỉ, sa thải…
3.2.5. Các giải pháp khác.
-Đổi mới công nghệ ngân hàng: Công nghệ ngân hàng làm một yếu tốt quan trọng mà bất cứ một ngân hàng nào cũng phải quan tâm trong chiến lược phát triển kinh doanh của mình. Ứng dụng công nghệ hiện đại giúp ngân hàng giảm thiểu được những quy trình mang tính chất thủ công, mất nhiều thời gian và chi phí. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng giúp ngân hàng tránh rơi vào tình trạng tụt hậu, kém khả năng cạnh tranh trong môi trường kinh doanh ngày càng khó khăn như hiện nay. Để làm được điều đó, chi nhánh cần phải: Hoàn thiện việc nâng cấp chương trình hiện đại hóa ở tất cả các bộ phận nghiệp vụ tại phòng cho vay, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm để quản lý nghiệp vụ tập trung. Hồ sơ thông tin khách hàng, doanh nghiệp cần phải được chuẩn hóa, đồng nhất trong hệ thống. Việc tra cứ hồ sơ khách hàng doanh nghiệp cũng đơn giản thuận tiện hơn. Ứng dụng công nghệ tính điểm tự động trên hệ thống để xếp hạng khách hàng doanh nghiệp. Hạn chế tính chủ quan, che dấu các thông tin bất lợi về doanh nghiệp đi vay. Thực hiện chương trình quản lý rủi ro, lọc các số liệu từ các báo cáo để phục vụ quản lý, điều hành và ra quyết định của bộ phận quản lý. Ngoài ra, chi nhánh cần tiếp tục nâng cấp các hệ thống trang thiết bị, hệ thống mạng nội bộ, áp
dụng công cụ quản trị mạng hiện đại và công nghệ an ninh bảo mật cho toàn hệ thống mạng nội bộ của chi nhánh.
-Đẩy mạnh hoạt động Marketing: Đẩy mạnh công tác tiếp thị khách hàng lớn như: Các doanh nghiệp, các tổng công ty, tập đoàn và các đơn vị có hoạt động xuất nhập khẩu giao dịch với chi nhánh. Từ đó tạo ra nguồn mở rộng cho vay trung- dài hạn. Thu thập thông tin về doanh nghiệp định đầu tư, chủ động tìm đến doanh nghiệp có những dự án trung, dài hạn khả thi góp phần phát triển, tiến hành mở rộng sản xuất trên địa bàn. Chi nhánh nên mở thêm nghiệp vụ tư vấn cho khách hàng doanh nghiệp về công tác sử dụng vốn trung, dài hạn, đem lại hiệu quả cao cho khách hàng doanh nghiệp.
-Tổ chức các cuộc khảo sát, điều tra định kỳ: Các cuộc khảo sát điều tra thực tế sẽ giúp cho chi nhánh có cái nhìn tổng quan, cận cảnh và chính xác về tình hình SXKD, nhu cầu cũng như các khó khăn của các doanh nghiệp hiện nay. Các cuộc điều tra có thể là: Nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, Những khó khăn rào cản khi tiếp cận vốn của doanh nghiệp, Mức độ hài lòng của khách hàng doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ của chi nhánh,… Trên thực tế hiện nay có rất ít các ngân hàng thực hiện điều này, bởi hoạt động này cần nhiều thời gian, chi phí và nhân lực. Vì vậy, chi nhánh Vietcombank Thành Công nên tiến hành hoạt động này để có những giải pháp giải quyết cụ thể để kịp thời nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay trung- dài hạn đối với doanh nghiệp nói riêng.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1.1. Kiến nghị với ngân hàng Viecombank Việt Nam
-Xây dựng và hoàn thiện hệ thống xếp hạng và xếp loại chi nhánh: Ngân hàng TMCP Vietcombank Việt Nam cần nghiên cứu và hoàn thiện công tác chấm điểm, xếp hạng và xếp loại đối với các chi nhánh hàng năm. Xếp hạng chi nhánh nhằm đáng giá qui mô chi nhánh, từ đó cho phép chi nhánh có mức phán quyết hợp lý với quy mô và kinh nghiệm hoạt động. Xếp loại chi nhánh nhằm đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong năm tài chính, qua đó có mức lương, thưởng xứng đáng với kết quả hoạt động của chi nhánh.
-Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao CBTD: Ngân hàng TMCP Vietcombank Việt Nam cần thường xuyên tổ chức mở các lớp đào tạo, nâng cao chất lượng CBTD, đặc biệt là nâng cao kiến thức về lý luận và nghiệp vụ thẩm định DAĐT. Đồng thời ngân hàng cần có cơ chế lương thưởng nhằm khuyến khích đội ngũ CBTD nâng cao chất lượng công việc, năng động sáng tạo trong cơ chế mới. Điều này sẽ tác động đến nhận thức và hiệu quả làm việc của CBTD, từ đó tác động đến chất lượng hoạt động cho vay trung-dài hạn.
-Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin ngành và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng: Ngân hàng TMCP Vietcombank Việt Nam cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu đối với ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế nhằm cung cấp thông tin cho các chi nhánh trong hoạt động cho vay. Việc xây dựng dữ liệu tốn rất nhiều thời gian, chi phí, nhân sự và phải có sự kết hợp của rất nhiều chi nhánh nhằm hoàn thiện cơ sở dữ liệu. Đối với các dự án lớn, ngân hàng cân đối và hỗ trợ nguồn vốn với lãi suất hợp lý đảm bảo khả năng cạnh tranh của chi nhánh. Ban hành các chế độ nghiệp vụ cho vay tránh mâu thuẫn chồng chéo với các quy định chung của Nhà nước.
Hỗ trợ chi nhánh trong việc đầu tư và nâng cao trang thiết bị, công nghệ ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả trong các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng và bắt kịp xu hướng phát triển chung của ngân hàng toàn cầu.
3.3.1.2. Kiến nghị với các khách hàng doanh nghiệp của Vietcombank Thành Công
-Nâng cao năng lực hoạt động SXKD của doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, doanh nghiệp luôn phải chủ động tìm kiếm thị trường và nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng để có thể thực hiện tốt việc cho vay vốn. Do đó, các doanh nghiệp cần thực hiện nhiều biện pháp hợp lý nhằm nâng cao năng lực họat động SXKD như: Sắp xếp lại cơ cấu tổ chức; nâng cao khả năng quản lý; xây dựng chính sách đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng và triển khai kế hoạch SXKD hợp lý; đẩy mạnh hoạt động Marketing; kết hợp phát huy nội lực với sự hỗ trợ của hệ thống NHTM để có vốn tiến hành các dự án SXKD có khả năng sinh lời cao… Nếu thực hiện hiệu quả các biện pháp này, không chỉ các ngân hàng có lợi khi hợp tác với các doanh nghiệp, mà còn tạo cơ hội cho chính bản thân các doanh nghiệp có thể chủ động chiếm lĩnh thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế.
-Doanh nghiệp cần cung cấp những thông tin chính xác cho ngân hàng: Đa số doanh nghiệp đi vay thường cho rằng ngân hàng còn nhiều thủ tục rắc rối, làm mất cơ hội SXKD của họ. Nhưng bản thân doanh nghiệp cũng thường mắc các phải một số lỗi ảnh hưởng tới quyết định của ngân hàng:
Doanh nghiệp thường không muốn cung cấp đầy đủ thông tin hoặc cung cấp những thông tin không hoàn toàn chính xác, do muốn giữ kín những số liệu, những yếu điểm và bí mật kinh doanh. Điều này khiến ngân hàng không thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng và chính xác nếu dựa vào những số liệu báo cáo tài chính số liệu sản xuất - kinh doanh chưa chính xác mà doanh nghiệp cung cấp. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải thực hiện nghiêm chế độ kế toán, báo cáo tài chính công khai, minh bạch, cung cấp cho chi nhánh những thông tin đầy đủ, chính xác và rõ ràng.
Số tiền vay và thời gian xin vay không đúng với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Khi vay vốn trung và dài hạn, doanh nghiệp thường phải trả lãi suất cao hơn ngắn
hạn. Do vậy, mặc dù muốn vay trung và dài hạn nhưng doanh nghiệp lại vay ngắn hạn, đến thời hạn trả nợ ngắn hạn thì lại làm đơn xin gia hạn nợ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của ngân hàng do thay đổi trong dự tính cho vay ban đầu.
Để có thể đáp ứng được nhu cầu vốn cho vay trung và dài hạn của toàn bộ nền kinh tế thì chỉ có sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ hệ thống NHTM là chưa đủ, mà phải có sự nỗ lực chung tay hợp tác từ những đối tác còn lại, đó là doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải đổi mới tư duy, khắc phục những nhận thức sai lầm trên để có thể tự khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế. Đồng thời, giúp đỡ hỗ trợ các ngân hàng trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn.
3.3.1.3. Kiến nghị với NHNN
-Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy: Tiếp tục hoàn thiện và hướng dẫn thi hành về hai luật ngân hàng: Luật NHNN và Luật các TCTD cho các NHTM. Việc triển khai xây dựng về luật ngân hàng cần phải khẩn trương, chất lượng, đảm bảo tuân thủ pháp luật và các yêu cầu đặt ra của nền kinh tế. NHNN cần phải giúp NHTM tháo gỡ các vướng mắc, giảm bớt các thủ tục phiền hà, không cần thiết nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn hoạt động cho hệ thống ngân hàng. Giúp các NHTM nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh.
-Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động ngân hàng, đảm bảo an toàn hệ thống ngành ngân hàng: Hiện nay, các NHTM đang cạnh tranh quyết liệt với nhau bằng nhiều hình thức. Vì vậy, để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM thì NHNN cần phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các NHTM. Nâng cao năng lực quản lý của NHNN để khắc phục những khuyết điểm, xử lý kiên quyết những sai phạm và chủ động có các giải pháp đồng bộ với các ngành có liên quan. Công tác thanh tra cần được xác định trọng tâm, trọng điểm đặc biệt là chất lượng cho vay của các NHTM. Việc kiểm tra, kiểm soát các NHTM sẽ đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng vì bất cứ một ngân hàng nào chạy đua cạnh tranh một cách không lành mạnh thì sự an toàn của các ngân hàng trong toàn hệ thống sẽ bị phá vỡ, ảnh hưởng một cách nghiêm trọng.
-Thành lập và phát triển hệ thống thông tin liên ngân hàng: Thị trường liên ngân hàng là thị trường giải quyết mối quan hệ về vốn giữa các NHTM. Các NHTM có thể vay mượn lẫn nhau trên thị trường này trước khi cần sự trợ giúp của NHNN. Vì vậy, hoạt động của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng điều hòa vốn giữa các NHTM, sử dụng tiềm năng vốn một cách triệt để nhất trước khi phải vay vốn của NHNN. NHNN nên tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của thị trường liên ngân hàng, hiệp hội ngân hàng cũng như việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin của CIC.
-Có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho các NHTM phát triển hoạt động của mình: NHNN cần tạo điều kiện hơn nữa cho các NHTM tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh. Bên cạnh đó, NHNN cũng nên hỗ trợ cho các NHTM trong việc thường xuyên tổ chức những khóa học, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay trung- dài hạn đối với doanh nghiệp nói riêng để các NHTM cùng tham gia. Tạo điều kiện cho các cán bộ ngân hàng, CBTD đi nghiên cứu hoạt động cho vay tại ngân hàng ở các nước phát triển để học hỏi, nâng cao và trau dồi kinh nghiệm. Các NHTM khi có nhu cầu vốn đột xuất, đảm bảo cho ngân hàng có đủ lượng vốn cần thiết đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Khi cần thiết hoặc khó khăn, NHNN phải giúp đỡ để các NHTM tiếp tục hoạt động, đảm bảo khả năng thanh khoản, tránh tình trạng dẫn đến phá sản ảnh hưởng tới hoạt động cả một hệ thống ngân hàng và nên kinh tế.
3.3.1.4. Kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước.
-Tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho ngân hàng hoạt động: Trong nền kinh tế thị trường, do tình hình kinh tế - xã hội phát triển mạnh nhiều quan hệ xã hội phát sinh thêm, đòi hỏi phải có pháp luật điều chỉnh cùng môi trường pháp lý lành mạnh nhằm hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết hiện nay là xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch, chặt chẽ làm chỗ dựa pháp lý ,cho ngân hàng, cho doanh nghiệp, các cá nhân và toàn xã hội. Hiện nay, do còn trong giai đoạn bổ sung và hoàn thiện, hệ thống pháp luật của nước ta chưa ổn định vững chắc, thường xuyên thay đổi dẫn tới là rất khó có thể tạo cơ sở cho hoạt động của ngân hàng và các thành viên xã hội khác phát triển hiệu quả Việc sửa đổi, bổ sung của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật đất đai nhà cửa... khiến cho các giấy tờ liên quan như giấy phép kinh doanh, giấy sở hữu nhà đất không rõ ràng, rất khó khăn cho các ngân hàng xem xét dự án để có thể cho vay hay không
Riêng với lĩnh vực ngân hàng, luật các TCTD là cơ sở pháp lý quan trọng để ngân hàng căn cứ xem xét cho vay đối với các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên, việc ban hành các quy định ngặt nghèo đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, khiến cho dư nợ của thành phần kinh tế này hầu như là hạn chế. NHNN cần ban hành quy chế có tính mềm dẻo hơn nhằm kích thích CBTD tìm kiếm khách hàng doanh nghiệp để cho vay. Có thể thấy rằng việc hoàn thiện môi trường pháp lý là rất cần thiết. Các luật, bộ luật phải vừa đảm bảo tính đồng bộ lẫn minh bạch và dân chủ, vừa phải kích thích cho tất cả các hoạt động đều phát triển và đi vào khuôn phép.
-Nhà nước cần có biện pháp đồng bộ để ổn định tiền tệ: Trên phương diện vĩ mô, chính sách tiền tệ giai đoạn tới vẫn phải hướng vào mục tiêu ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền kiềm chế lạm phát, đồng thời góp phần thúc đẩy nền
kinh tế trong nước phát triển vượt qua thời kỳ suy giảm kinh tế, tăng trưởng ổn định và ngày càng bền vững. Chính sách tiền tệ phải được điều hành bởi các công cụ kèm theo chính sách cụ thể về cho vay, về quản lý ngoại hối đối với nền kinh tế, đồng thời phối hợp với chính sách tài khóa nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài. Quan điểm trong xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn này là phải điều hòa được các quan hệ từ lâu đã có mâu thuẫn, đó là:
Giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Giữa lợi ích chung là kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế với lợi ích của NHTM, TCTD và các Tổ chức kinh tế - xã hội.
Giữa lợi ích của người gửi tiền, của NHTM và doanh nghiệp đi vay.
Hiện nay, các công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ ngày càng bộc lộ những hạn chế như làm cho việc phân phối vốn không hiệu quả, kiềm chế tài chính cứng nhắc và thiếu linh hoạt, trong khi đó các công cụ gián tiếp sẽ giúp cho NHNN điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt theo sự biến động của thị trường. Thế nên định hướng trong giai đoạn này là phải chuyển mạnh sang vận dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp thay cho việc sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp.
-Tăng cường trách nhiệm từ phía Nhà nước, ngân hàng và doanh nghiệp: Việc mở rộng cho vay, nhất là cho vay trung - dài hạn đối với các doanh nghiệp đã gặp không ít khó khăn, thậm chí đôi lúc xảy ra tình trạng ngân hàng bị ứ đọng vốn không có nguồn để cho vay,trong khi đó các doanh nghiệp lại thiếu vốn trầm trọng. Để quan hệ giữa hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng ngày càng phát triển, cần có sự phối hợp đồng bộ của các cấp các ngành, và thực hiện các giải pháp khắc phục chủ yếu sau đây:
Kiên quyết sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, chỉ giữ lại những doanh nghiệp hoạt động công ích, những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho sự phát triển quốc kế dân sinh, tạo điều kiện cho các DAĐT trọng điểm, nâng cao được hiệu quả kinh tế. Các doanh nghiệp Nhà nước phải khẳng định được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế, làm ăn có hiệu quả, có định hướng hoạt động chắc chắn, tạo sự tin tưởng cho nhà đầu tư và cũng là cơ hội tốt để mở rộng, phát triển hoạt động cho vay của ngân hàng. Đồng thời, sau khi sắp xếp sẽ tiến hành xử lý nợ, trong đó có nợ ngân hàng.
Bộ Tài chính cần tiếp tục cấp bổ sung đủ mức vốn điều lệ đã được duyệt cho các doanh nghiệp để đảm bảo số tiền vốn tối thiểu cho hoạt động SXKD của các doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho các doang nghiệp dễ dàng vay vốn. Đối với các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, do ảnh hưởng của chu kỳ sản xuất hoặc thực sự cần thiết phải tồn tại, thì đề nghị Bộ Tài chính cho phép giãn nợ
73
4 - 5 năm để doanh nghiệp có thời gian sắp xếp lại hoạt động sản xuất, kinh doanh và tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng.
Tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi, ban hành các bộ luật, văn bản dưới luật liên quan, đến hoạt động của ngân hàng nói riêng ,đến hoạt động của nền kinh tế nói chung, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của NHTM và doanh nghiệp đi đúng giới hạn cho phép và phân rõ trách nhiệm của người đi vay và người cho vay trong quan hệ cho vay.
Rà soát lại năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kinh doanh đồng thời tiếp tục nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ ngân hàng.
Tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, tạo ra nhiều sản phẩm mới ngoài lĩnh vực bảo hiểm và kết hợp với các công ty thành viên thực hiện kinh doanh tổng hợp trong các lĩnh vực tài chính – ngân hàng như tư vấn, bất động sản, thuê mua....
-Thành lập trung tâm quản lý và bán đấu giá tài sản thế chấp: Hình thức công ty mua bán nợ đã xuất hiện từ rất lâu ở nhiều nước trên thế giới như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh ,Mỹ.. Các công ty này được hình thành khách quan trong nền kinh tế thị trường, khi có nhiều khoản nợ xuất hiện ở các tổ chức tín dụng khác nhau. Bản chất, hoạt động của loại hình công ty này là kinh doanh các khoản nợ của các doanh nghiệp vay các tổ chức tín dụng để thu lợi nhuận. Hiện nay tại Việt Nam, Chính phủ triển khai thành lập công ty nợ trực thuộc Chính phủ, thực hiện hai mục tiêu là đảm bảo an toàn, lợi ích của các tổ chức tín dụng và thực hiện mục tiện lợi nhuận. Ban lãnh đạo của công ty phải bao gồm các thành viên của NHNN, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính và cán bộ các Ban, Ngành có liên quan đến việc quản lý và bán đấu giá tài sản đảm bảo. Hoạt động của công ty bao gồm: Định giá; nhận tài sản thế chấp, cầm cố; quản lý các tài sản đảm bảo; và sau cùng là bán đấu giá để thu hồi khoản vay nếu khách hàng không trả được nợ.
-Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc: Để giúp các ngân hàng xét duyệt hồ sơ xin vay vốn của các doanh nghiệp được chính xác, báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải phản ánh đúng tình hình thực tế đồng thời việc thu thập thông tin của ngân hàng cũng phải được tiến hành thuận lợi, chính xác. Muốn vậy, cần tăng cường hiệu lực pháp lý về chế độ kế toán, đảm bảo tính đồng bộ chuẩn mực của công tác hạch toán kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho CBTD của ngân hàng có thể đưa ra những kết luận đúng đắn và chính xác về tình hình tài chính, tình hình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay, Nhà nước đã quy định chế độ kiểm toán bắt buộc đối với mọi loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, kết quả kiểm toán của công ty kiểm toán nào được công nhận trên phạm vi toàn quốc còn chưa được quy chuẩn, thống nhất từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
LỜI KẾT
Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt, có nhiều biến động mạnh và bất ổn như hiện nay. Nâng cao chất lượng, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay trung- dài hạn đối với doanh nghiệp luôn là đòi hỏi cấp thiết, được quan tâm chú trọng tại các ngân hàng. Tại ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thành Công, hoạt động nâng cao chất lượng cho vay trung- dài hạn đối với doanh nghiệp giai đoạn 2011-2013 đã đạt được nhiều nhân tố tích cực, khả quan. Chi nhánh đã ngày càng khẳng định được vị thế, vai trò của mình nhằm góp phần mở rộng hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Mặc dù vẫn còn tồn tại những khó khăn, hạn chế về nguồn vốn trung-dài hạn, tỷ lệ nợ xấu còn cao,... Qua thời gian thực tập tại Vietcombank Thành Công, em đã đi sâu nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay trung-dài hạn đối với doanh nghiệp tại chi nhánh để tìm ra nguyên nhân, giải pháp. Với những kiến thức có được ở bậc đại học cùng với việc nghiên cứu hoạt động thực tế tại chi nhánh, em hy vọng những giải pháp, kiến nghị trên sẽ giúp khắc phục những khó khăn còn tồn tại, cải thiện và nâng cao được chất lượng hoạt động cho vay trung- dài hạn đối với doanh nghiệp tại chi nhánh trong thời gian tới. Góp phần nâng cao doanh thu, nâng cao uy tín cho chi nhánh và thúc đẩy quá trình xây dựng và đổi mới phát triển toàn diện nền kinh tế nước ta, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, đưa nền kinh tế nước ta hòa nhịp vào quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế.
Do hiểu biết bản thân và kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều, bên cạnh đó thời gian nghiên cứu không phải là dài nên trong bài viết không tránh khỏi những sai sót, cần phải nghiên cứu kỹ và bổ sung hơn. Vì vậy, em mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô cùng toàn thể cán bộ nhân viên ngân hàng để bài viết được hoàn thiện hơn nữa. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô Ngô Khánh Huyền đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành bài khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 30 tháng 6 năm 2014
Sinh viên
Phạm Ngọc Huân
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nội dung văn kiện Đại hội Đảng- Chính phủ, truy cập ngày 11 tháng 05 năm 2014,
2. Quốc Hội (2010), Luật số 47/2010/QH12, Luật các tổ chức tín dụng 2010, Hà Nội.
3. PGS.TS Mai Văn Bạn (2009), Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Đại học Thăng Long, NXB Tài chính.
4. TS. Nguyễn Minh Kiều (2009), Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê.
5. Luật các tổ chức tín dụng (2010).
6. Ngân hàng Vietcombank Việt Nam (2012), Báo cáo thường niên năm 2012, HN.
7. Ngân hàng Vietcombank Việt Nam (2013), Báo cáo thường niên năm 2013, HN.
8. Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Thành Công (2011-2013), Báo cáo kết quả hoạt động giai đoạn 2011-2013, Hà Nội.
9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010), Thông tư số 15/2010/TT-NHNN, Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro cho vay trong hoạt động của các tổ chức tài chính, Hà Nội.
10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), Thông tư 02/2013/TT-NHNN, Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, Hà Nội.
11. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012), Thông tư 37/2012/TT-NHNN, Quy định cho vay bằng ngoại tệ của TCTD, Hà Nội.
12. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2000), Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1, Ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, Hà Nội
13. Website: http://voer.edu.vn
14. Website: http://www.vietcombank.com.vn/about/