- Trên cơ sở pháp lý thì hoạt động cho vay có chất lượng khi nó phải tuân theo các qui định của pháp luật mà trực tiếp là luật các tổ chức tín dụng, các qui định về cho vay,quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng do NHNN ban hành cũng như những văn bản cụ thể của từng NHTM.
- Khoản cho vay có chất lượng còn đòi hỏi phải thực hiện theo đúng qui trình cho vay. Và với mỗi đối tượng khách hàng khác nhau thì được áp dụng một qui trình khác nhau. Mục đích của việc đặt ra qui trình này ở mỗi ngân hàng là làm cho khoản cho vay có chất lượng.
- Trên cơ sở hợp đồng cho vay của các ngân hàng. Hoạt động cho vay có chất lượng khi các khoản cho vay có chất lượng. Các khoản cho vay có chất lượng khi người vay sử dụng đúng mục đích vay vốn, hoàn trả vốn gốc và lãi đúng thời hạn và khả năng trả nợ của khách hàng là từ hiệu quả của việc sử dụng vốn vay. Nếu các khoản vay sử dụng không đúng mục đích thì rủi ro là rất lớn.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.4.1. Các nhân tố về phía ngân hàng
1.4.1.1. Chính sách cho vay
Hoạt động cho vay là hoạt động truyền thống của ngân hàng mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay khi mà dịch vụ ngân hàng chưa thực sự phát triển. Với tầm quan trọng và qui mô lớn nên hoạt động cho vay thường phải theo một chính sách nhất định, nó được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, nó phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và toàn bộ nhân viên ngân hàng. Chính sách cho vay của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào nhu cầu vốn của khách hàng cũng như khả năng sinh lời và rủi ro tiềm năng của khách hàng từ đó ngân hàng đưa ra các quyết định cho vay
phù hợp. Tuy nhiên, nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là do huy động từ nguồn tiền gửi và vay ngắn hạn nên ngân hàng thường chủ yếu cho vay ngắn hạn để đảm bảo sự phù hợp về kì hạn đảm bảo an toàn cho khoản cho vay.
Chính sách khách hàng: khách hàng nhận tín dụng của ngân hàng rất đa dạng, từ các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước, cá nhân người tiêu dùng, các ngân hàng, các công ty tài chính. Tuy nhiên luật pháp cũng cấm hoặc hạn chế tài trợ đối với một số đối tượng nhất định. Mỗi ngân hàng thường tiến hành phân loại khách hàng truyền thống, khách hàng quan trọng và khách hàng khác để từ đó có chính sách hợp lý với từng loại khách hàng. Nếu nhóm khách hàng nào được ngân hàng xác định là đối tượng khách hàng mục tiêu thì sẽ có những chính sách ưu đãi nhất định.
Chính sách qui mô và giới hạn: ngân hàng sẽ tài trợ cho khách hàng dựa trên nhu cầu vốn của khách hàng nhưng phải phù hợp với qui định cũng như những tính toán của ngân hàng về rủi ro và khả năng sinh lời. Nhìn chung ngân hàng thường quan tâm đến vốn chủ sở hữu của khách hàng và ít muốn tài trợ cho khách hàng vượt quá khả năng về vốn chủ sở hữu. Với mỗi ngân hàng khác nhau thì còn có những qui định về mức cho vay tối đa của giám đốc khu vực hoặc chi nhánh, quy mô cho cho vay dựa trên tài sản đảm bảo, quy mô cho vay tối đa với từng khách hàng, từng ngành nghề. Chính sách này có tác động rất lớn đến khả năng vay vốn của các DNV&N.
Chính sách lãi suất và phí suất tín dụng: lãi suất và phí suất tín dụng là khoản thu nhập của ngân hàng để bù đắp những chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra. Ngân hàng khi thoả thuận về lãi suất tín dụng phải tính đến rủi ro, lãi suất hoà vốn và lãi suất cạnh tranh trên thị trường. Với mỗi loại tiền, mỗi loại kỳ hạn và mỗi loại khách hàng khác nhau thì có một mức lãi suất khác nhau. Đối với các khách hàng truyền thống có quan hệ vay trả tốt với ngân hàng thì thường có những mức lãi suất ưu đãi hơn. Các DNV&N thường phải chịu
mức lãi suất cao hơn do mức độ rủi ro khi cho loại hình doanh nghiệp này vay.
Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ: các giới hạn về thời hạn luôn được các nhà quản lý ngân hàng quan tâm vì nó liên quan đến thanh khoản và rủi ro của ngân hàng cũng như chu kỳ kinh doanh của người vay.
Tài sản đảm bảo và chính sách đối với tài sản có vấn đề: Khi DNV&N vay vốn thì cũng như bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào đều phải có tài sản thế chấp. Đây là điều kiện để các DNV&N có thể tiếp cận được vốn của ngân hàng và là một trong những điều kiện làm cho khoản vay có chất lượng hơn.
1.4.1.2. Năng lực thẩm định, giám sát và quản lý qui trình cho vay
Đây là những yếu tố mà có thực hiện tốt hay không phụ thuộc vào chất lượng cán bộ tín dụng của ngân hàng. Chất lượng cán bộ ở đây không chỉ đơn thuần là nghiệp vụ mà còn cả tư cách đạo đức và kĩ năng giao tiếp của người cán bộ. Các DNV&N chiếm một lượng khá lớn trong các doanh nghiệp hiện nay, không nhỏ trong số các ông chủ của doanh nghiệp này có tư tưởng làm ăn chộp giật, luôn có chủ ý lừa đảo ngân hàng nếu có thể. Hơn nữa ngành hàng mà các DNV&N kinh doanh thường khá đa dạng do vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có những hiểu biết nhất định khi thẩm định khoản cho vay đồng thời khi cho vay ngắn hạn cần phải thường xuyên giám sát xem liệu khách hàng có thực sự nhập nguyên vật liệu để sản xuất kinh doanh hay không. Qui trình cho vay bao gồm những qui tắc, qui định của ngân hàng trong việc cấp vốn cho khách hàng, trong đó sẽ xác định trình tự từ khi nộp hồ sơ cho đến khi chấm dứt quan hệ với khách hàng. Việc tuân thủ qui trình này sẽ làm cho khoản vay có chất lượng cao hơn. Đối với cho vay ngắn hạn qui trình này phải tiến hành một cách linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc an toàn cho ngân hàng và lợi ích của người đi vay.
1.4.1.3. Thông tin về khách hàng
Ngân hàng hoạt động kinh doanh dựa trên cơ sở “nhận tiền gửi và đi vay để cho vay” khi ngân hàng nhận tiền gửi và đi vay thì ngân hàng phải hoàn trả đúng hạn do vậy ngân hàng cũng đòi hỏi người đi vay phải có khả năng và thiện chí trả nợ đúng thời hạn đã cam kết trong hợp đồng. Do vậy khi cho vay ngân hàng cần tìm hiểu kỹ các thông tin về người đi vay. Các thông tin này có thể lấy từ nhiều nguồn có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Đồng thời ngân hàng phải phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính của người vay. Việc thu thập thông tin đầy đủ sẽ giúp cho ngân hàng có những đánh giá chính xác về người vay từ đó ra quyết định đúng đắn đảm bảo chất lượng cho vay được nâng cao.
1.4.1.4. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Đây là phần việc quan trọng nếu làm tốt công tác này sẽ đảm bảo chất lượng các khoản vay được nâng cao.
1.4.2. Các nhân tố về phía DNV&N
Để có thể tiếp cận với các nguồn vốn của ngân hàng thì bản thân các DNV&N phải biết được mục tiêu, nguyên tắc hoạt động cũng như các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp để từ đó chủ động thiết lập các điều kiện cần thiết để có thể vay vốn của ngân hàng. Các DNV&N phải đảm bảo được khả năng tài chính, ý chí trả nợ…Do vậy về phía các DNV&N có thể có các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay ngắn hạn như đạo đức kinh doanh, tình hình tài chính, dự án xin vay, trình độ quản lý của DNV&N.
- Đạo đức kinh doanh thể hiện trước hết ở khâu đầu tiên khi khách hàng trình hồ sơ vay vốn. Đạo đức thể hiện ở tính trung thực của các thông tin mà khách hàng đưa cho ngân hàng. Và quan trọng hơn là trong quá trình sử dụng vốn vay khách hàng có sử dụng đúng mục đích đã cam kết hay không và khi đến hạn có thiện chí để trả nợ hay không.
Thứ nhất, năng lực vay vốn: thực tế không phải bất kỳ khách hàng nào đến vay vốn đều được ngân hàng đáp ứng. Ngân hàng cho vay dựa vào năng lực pháp lý, năng lực tài chính và năng lực sản xuất của khách hàng. Năng lực pháp lý giúp đảm bảo tính hợp pháp của hợp đồng vay vốn. Khách hàng phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Nếu khách hàng là cá nhân phải có đầy đủ giấy chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu thường trú và xác nhận của chính quyền địa phương. Còn đối với doanh nghiệp thì cần phải có các giấy tờ chứng minh sự tồn tại hợp pháp của doanh nghiệp đó như đăng ký kinh doanh, mã số thuế...Năng lực pháp lý là yếu tố đầu tiên mà cán bộ tín dụng phải kiểm tra khi tiếp nhận một hồ sơ vay vốn. Ngân hàng cho vay ngắn hạn chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên hoặc nhu cầu vốn thời vụ do đó ngoài vốn vay ngân hàng thì ngân hàng cần phải có tình hình tài chính lành mạnh. Ngân hàng thường quan tâm đến các hệ số về khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh và tự tài trợ của khách hàng. Ngoài ra ngân hàng còn quan tâm đến cơ cấu nợ và qui mô của các khoản nợ chủ yếu là các khoản nợ đến hạn phải trả vì cho vay ngắn hạn thời hạn vay dưới 12 tháng. Ngân hàng còn đặc biệt quan tâm đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong những năm trước đó xem qui mô sản xuất của doanh nghiệp cũng như khả năng đáp ứng những sản phẩm cho thị trường.
Thứ hai, dự án xin vay: khi khách hàng trình một phương án sản xuất kinh doanh ngân hàng cần phải tiến hành thẩm định, đánh giá phương án và từ đó sẽ quyết định hạn mức cho vay cũng như thời gian cho vay. Ngân hàng chỉ cho vay đối với những dự án khả thi.
Thứ ba, trình độ quản lý của DNV&N: điều này sẽ quyết định đến chất lượng thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh. Việc quản lý tốt sẽ góp phần giảm thiểu chi phí không cần thiết chống lãng phí do vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Như vậy chất lượng cho vay cũng phụ thuộc nhiều vào trình độ quản lý của chủ DNV&N. Vì như trên đã phân tích trình độ của chủ
DNV&N là rất đa dạng cũng như cách thức làm ăn đôi khi không mang tính chất lâu dài.
1.4.3. Các nhân tố khác
1.4.3.1. Môi trường kinh tế
Một nền kinh tế dù mạnh hay yếu đều phải trải qua chu kỳ “khủng hoảng - suy thoái - phát triển - hưng thịnh”. Do vậy một nền kinh tế tăng trưởng lành mạnh, tiềm năng sản xuất và tiêu dùng của xã hội càng lớn thì hoạt động sản xuất kinh doanh có điều kiện tốt để phát triển. Một nền kinh tế mà đang ở trạng thái tăng trưởng cao và ổn định thì các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ diễn ra theo chiều hướng tốt như vậy nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tăng cao tạo điều kiện cho ngân hàng tăng các khoản cho vay. Ngược lại trong nền kinh tế khủng hoảng đang trên đà xuống dốc, thu nhập của tất cả các thành viên trong xã hội giảm xuống, lạm phát tăng vọt, giá cả đồng tiền giảm xuống, sản xuất bị đình đốn thì khả năng sản xuất kinh doanh là rất kém, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và khả năng thu hồi công nợ của ngân hàng nói riêng. Đồng thời hoạt động cho vay của ngân hàng cũng bị thu hẹp và khó có thể phát triển được. Mặt khác các biến số kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất huy động thay đổi theo xu hướng tăng lên sẽ gây ra hao mòn vô hình cho các khoản cho vay của ngân hàng và từ đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng khoản vay.
1.4.3.2. Nhân tố pháp lý
Hành lang pháp lý là một trong những yếu tố quan trọng để doanh nghiệp hoạt động theo khuôn khổ nhất định. Ngân hàng hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực mà đối tượng là hàng hoá đặc biệt “ tiền tệ”. Cái mà ngân hàng cần trước hết là hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa đầy đủ, đồng bộ, hợp lý sẽ không đảm bảo được môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp ảnh
hưởng đến rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Pháp luật còn là cơ sở để giải quyết mối quan hệ giữa ngân hàng và các DNV&N. Chấp hành đúng pháp luật sẽ đảm bảo lợi ích cho cả hai bên.
1.4.3.3. Môi trường xã hội
Việc thu hút được đầu tư nước ngoài là yêu cầu đặt ra đối với bất kỳ nền kinh tế nào bởi ngoài việc thu hút được ngoại tệ thì họ còn mang đến cả công nghệ, cách thức quản lý hiện đại. Để thu hút được đầu tư nước ngoài thì đòi hỏi môi trường chính trị trong nước phải ổn định, tạo ra niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Nói đến các yếu tố xã hội người ta thường đề cập đến trình độ dân trí, tư cách đạo đức của người vay. Một xã hội có sự ổn định cao, trình độ dân trí cao thì tạo điều kiện cho việc mở rộng cho vay. Trong nền kinh tế mà tư cách đạo đức của người vay thấp thì sẽ tạo ra rủi ro đạo đức đối với người cho vay vì người đi vay có ý định lừa gạt ngân hàng từ lúc bắt đầu vay vốn. Như vậy sự ổn định về xã hội tác động mạnh đến chất lượng các khoản vay.
1.4.3.4. Các đối thủ cạnh tranh trên cùng địa bàn
Các DNV&N không chỉ là khách hàng mục tiêu của nhiều ngân hàng nên khách hàng có thể lựa chọn tổ chức tín dụng nào phù hợp nhất, đem lại lợi ích cao nhất cho họ để vay vốn. Điều này đã gây ra sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong cùng địa bàn. Do vậy các ngân hàng thực hiện tốt chính sách khách hàng như đa dạng các hình thức cho vay ngắn hạn, thủ tục cho vay đơn giản hơn, gia tăng các dịch vụ tiện ích…Như vậy ngân hàng mới thu hút được các DNV&N tạo điều kiện sàng lọc đối tượng khách hàng do vay sẽ nâng cao được chất lượng cho vay.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1 Khái quát về tình hình tín dụng đối với DNV&N tại một số ngân hàng thương mại Việt Nam
2.1.1. Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
- Quy mô dư nợ: tổng dư nợ trong năm 2009 của ngân hàng cổ phần ngoại thương Việt Nam là 141.621 tỷ đồng, tăng 28.828 tỷ đồng tương ứng tăng 25% so với năm 2008. Đặc biệt, dư nợ cho vay đối với khách hàng là các DNV&N chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ và tăng cao so với năm trước. Năm 2008 dư nợ cho vay đối với khách hàng là DNV&N là 50.200 tỷ đồng, chiếm 44,5% tổng dư nợ cho vay, thì đến năm 2009 dư nợ đối với nhóm khách hàng này là 65.642 tỷ đồng chiếm 46,4% tổng dư nợ, tăng 15.442 tỷ đồng so với năm 2008.
Bảng 2.1: Dư nợ cho vay theo nhóm khách hàng của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm 2008 | Năm 2009 | |
Tổng dư nợ | 112.793 | 141.621 |
Doanh nghiệp lớn | 41.122 | 48.303 |
Doanh nghiệp vừa và nhỏ | 50.200 | 65.642 |
Tư nhân cá thể | 21.471 | 27.676 |
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ - 2
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Cho Vay Ngắn Hạn
- Chất Lượng Cho Vay Ngắn Hạn Đối Với Doanh Nghiêp Vừa Và Nhỏ
- Dư Nợ Tín Dụng Đối Với Dnv&n Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương Việt Nam
- Cơ Cấu Bộ Máy Tổ Chức Của Nhtmcp Ct Chi Nhánh Tỉnh Nđ
- Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Nhtmcp Ct Chi Nhánh Tỉnh Nam Định
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
( Nguồn: Báo cáo tài chính ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
Nam năm 2008-2009)
- Cơ cấu theo thời hạn cho vay: Đối với các DNV&N, tỷ trọng cho vay trung và dài hạn tuy vẫn cao nhưng đang có xu hướng giảm dần. Năm 2008 cho vay trung và dài hạn DNV&N là 22.590 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 45% tổng dư nợ cho vay DNV&N thì đến năm 2009 dư nợ cho vay trung và dài hạn DNV&N là 28.226 tỷ