1.1.4.4. Cho vay theo kế hoạch tài chính
Cho vay theo kế hoạch tài chính là hình thức cho vay trung và dài hạn trong đó ngân hàng cho doanh nghiệp vay theo dòng tiền nhằm tài trợ cho một tài sản dài hạn hoặc một nhu cầu dài hạn của doanh nghiệp với nguồn trả nợ là dòng tiền tăng thêm qua các chu kì chuyển hóa tài sản liên tiếp trong thời hạn vay. Đối với hình thức cho vay này ngân hàng thường xác định mức cho vay phù hợp với sự thiếu hụt trong kế hoạch lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp và thời hạn cho vay phải phù hợp với thời gian doanh nghiệp tạo ra đủ dòng tiền để trả nợ. Vì vậy, đối tượng cho vay của phương pháp này là các doanh nghiệp có năng lực quản lý, có nguồn vốn chủ sở hữu thích hợp và phải lập được báo cáo lưu chuyển tiền tệ dài hạn.
1.1.5. Nội dung hoạt động cho vay trung-dài hạn của NHTM đối với doanh nghiệp
1.1.5.1. Mục đích cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp
Nếu cho vay ngắn hạn là để bổ sung nguồn vốn lưu động (VLĐ) của doanh nghiệp, thì cho vay trung và dài hạn lại nhằm tài trợ tài trợ cho bất động sản, xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng nhu cầu SXKD, phát triển dài hạn của doanh nghiệp.
1.1.5.2. Nguyên tắc cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp
Việc vay vốn là nhu cầu tự nguyện của doanh nghiệp và là cơ hội để ngân hàng cho vay và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình. Tuy nhiên cho vay trung và dài hạn liên quan đến việc sử dụng vốn huy động của doanh nghiệp nên phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Nói chung, doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng phải dựa trên nguyên tắc:
- Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng cho vay.
- Phải hoàn trả tiền gốc và tiền lãi vay đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng cho vay.
- Việc bảo đảm tiền vay phải thực hiện quy định của chính phủ và của thống đốc ngân hàng nhà nước (NHNN).
1.1.5.3. Điều kiện cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp
Để được vay vốn, doanh nghiệp đi vay phải đến ngân hàng lập hồ sơ vay vốn. Hồ sơ vay vốn gồm: Đơn xin cấp vay, giấy chứng nhận đầu tư, đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận sở hữu tài sản cầm cố thế chấp,...
Mặc dù khi cho vay, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp vay vốn phải đảm bảo các nguyên tắc như vừa nêu trên, nhưng thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tuân thủ đúng các nguyên tắc này. Do vậy, để giúp cho việc đảm bảo các nguyên tắc vay vốn, ngân hàng chỉ xem xét cho vay khi doanh nghiệp thỏa mãn một số điều kiện
vay nhất định. Theo quy chế cho vay doanh nghiệp do NHNN ban hành, các điều kiện vay vốn doanh nghiệp cần có bao gồm:
- Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự;
- Có mục đích vay vốn hợp pháp;
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết;
- Có phương án SXKD, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; Bên cạnh đó có tính toán đầy đủ các số tiền xin vay, các nguồn trả nợ và lịch trả gốc và lãi vay;
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam.
Các điều kiện vay vốn trên đây chỉ là hướng dẫn chung cần thiết cho các NHTM. Khi cụ thể hóa các điều kiện cho vay này, các NHTM có thể cụ thể hóa và đặt ra các điều kiện riêng cho mình
1.1.5.4. Nguồn tài trợ cho vay trung và dài hạn
Ngân hàng sử dụng nhiều nguồn khác nhau để sử dụng cho vay trung- dài hạn, bao gồm:
-Nguồn vốn tự có: Là nguồn lực tự có mà chủ ngân hàng sở hữu và sử dụng vào mục đích kinh doanh theo luật định. Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHTM song nó lại là yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Nguồn vốn này là căn cứ để tính toán các hệ số đảm bảo an toàn và các chỉ tiêu tài chính trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Vốn tự có giúp duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Các NHTM có nguồn vốn tự có lớn sẽ chiếm được ưu thế hơn các ngân hàng khác trong việc cho vay trung và dài hạn.
-Nguồn vốn huy động từ nền kinh tế: Là giá trị tiền tệ mà các NHTM huy động được trên thị trường thông qua nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán có kỳ hạn và không kỳ hạn, phát hành giấy tờ có giá...
-Nguồn vốn vay nợ từ nước ngoài để cho vay trung và dài hạn: Vay nợ từ nước ngoài là hình thức được các ngân hàng trên thế giới sử dụng thường xuyên. Nguồn vốn này có thể huy động với khối lượng lớn và lãi suất hợp lý. Tuy nhiên, các ngân hàng chỉ nên sử dụng nó đối với các DAĐT có hiệu quả cao, tránh tình trạng không trả được nợ vay.
-Vốn nhận ủy thác và tài trợ để cho vay theo chương trình, DAĐT của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế - tài chính trong và ngoài nước. Đây là nguồn vốn không ổn định và các DAĐT thì thường được chỉ định trước, NHTM không có quyền lựa chọn mà chỉ là người trung gian đóng vai trò quản lý, giải ngân và thu hồi vốn đầu tư.
1.1.5.5. Hạn mức cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp
Hạn mức và thời hạn cho vay trung và dài hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như:
- Theo quy định, mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ của NHNN
- Phụ thuộc vào chính bản thân các ngân hàng, khối lượng vốn huy động của ngân hàng càng lớn thì mức cho vay cho từng doanh nghiệp càng nhiều, chính sách cho vay của ngân hàng qua từng thời kỳ và đối với mỗi dự án cũng khác nhau.
- Nhu cầu vay vốn, tình hình tài chính, uy tín của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng tới hạn mức và thời hạn cho vay. Các ngân hàng thường căn cứ vào tình hình tài chính, chu kỳ SXKD, kết quả kinh doanh, tính khả thi của dự án của doanh nghiệp có tốt hay không, uy tín đối với các tổ chức tài chính để đưa ra quyết định hạn mức cho vay.
- Phụ thuộc vào sự biến động của nền kinh tế, ổn định hay bất ổn. Ngân hàng sẽ quyết định hạn mức cho vay phù hợp đề phòng rủi ro.
1.1.5.6. Thời hạn cho vay trung và dài hạn
Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của DAĐT, khả năng trả nợ của doanh nghiệp và tính chất của nguồn vốn cho vay, trong đó:
-Cho vay trung hạn: Có thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng.
-Cho vay dài hạn: Có thời hạn trên 60 tháng nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo Quyết định thành lập hoặc Giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các DAĐT phục vụ đời sống.
Thời hạn cho vay bao gồm thời gian ân hạn và thời gian trả nợ:
Thời hạn cho vay = Thời gian ân hạn + Thời gian trả nợ
Thời gian ân hạn: Là thời gian xây dựng công trình, thời gian lắp đặt và chạy thử máy móc. Thời gian này xuất hiện đối với các khoản cho vay mà khi số tiền vay được phát ra phải trải qua một thời gian mới phát huy hiệu quả.
Thời gian trả nợ: là khoảng thời gian đã được thỏa thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp kể từ khi công trình xây dựng hoàn thành hay các phương tiện máy móc được đưa vào sử dụng cho đến khi trả hết nợ gốc và lãi để hoàn trả các khoản vốn đầu tư ban đầu.
1.1.6. Vai trò của hoạt động cho vay trung và dài hạn trong nền kinh tế
1.1.6.1. Đối với khách hàng doanh nghiệp
-Cho vay trung và dài hạn là nguồn tài trợ giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Đó là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường hoạt động của mình và nếu vậy phải mở rộng sản xuất. Mở rộng sản xuất không phải là hoạt động mà doanh nghiệp có thể tiến hành một sớm một chiều. Đó là hoạt động lâu dài và cần có nguồn vốn dài hạn. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng đủ vốn để tiến hành mở rộng
SXKD. Do vậy nhu cầu vốn để mở rộng SXKD đối với doanh nghiệp rất cần thiết. Với những lợi thế đặc thù, cho vay trung và dài hạn của ngân hàng được các doanh nghiệp ưa thích hơn hình thức phát hành cổ phiếu.
-Cho vay trung và dài hạn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thay đổi cơ cấu sản xuất. Điều đó giúp doanh nghiệp thích nghi với tình hình thị trường cũng như đặc thù của chính doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Về dài hạn, các doanh nghiệp luôn chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, đổi mới công nghệ để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí đến mức tối thiểu. Đặc biệt đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nhu cầu vốn xây dựng cơ bản là rất lớn trong lúc các nhà kinh doanh chưa tích luỹ được nhiều, chưa có nhiều thời gian để tích luỹ vốn, tâm lý đầu tư trực tiếp của công chúng vào các doanh nghiệp còn hạn chế.
Việc vay vốn trung và dài hạn ở NHTM sẽ làm cho doanh nghiệp có thể tự chủ và có khả năng kiểm soát độc lập được hoạt động SXKD của doanh nghiệp mình mà không phải phân chia quyền kiểm soát với các cổ đông nếu huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu.
-Cho vay trung và dài hạn còn là công cụ đắc lực của doanh nghiệp trong việc chớp lấy thời cơ kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh, các doanh nghiệp có thể nhanh chóng vay vốn của ngân hàng để mở rộng SXKD, gia tăng sản lượng để chiếm lĩnh thị trường. Khi doanh nghiệp đi vay vốn trung dài hạn tại NHTM sẽ có thể điều chỉnh được kỳ hạn nợ, nghĩa là họ có thể trả nợ sớm hơn thời gian đến hạn trả nợ khi họ không cần đến việc sử dụng vốn trung và dài hạn nữa. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ tại một thời điểm nhất định nào đó thì có xin ngân hàng gia hạn nợ. Ngoài ra, doanh nghiệp đi vay vốn trung và dài hạn còn tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, lệ phí đăng ký... Việc trả nợ cũng được xây dựng theo một sự phân chia ổn định và hợp lý do đó doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các nguồn trả nợ một cách dễ dàng hơn.
1.1.6.2. Đối với ngân hàng
-Cho vay trung và dài hạn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Cho vay trung dài hạn cả về số lượng và chất lượng là hoạt động mang tính chiến lược của các ngân hàng Thương mại. Với những khoản cho vay trung và dài hạn có quy mô lớn và lãi suất cao, thời gian dài, cho vay trung và dài hạn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Do vậy cho vay trung và dài hạn mang lại thu nhập chủ yếu trong tổng thể các hoạt động của NHTM từ trước đến nay.
-Khi ngân hàng cho doanh nghiệp vay chính là ngân hàng đang tạo ra và duy trì khách hàng của mình trong tương lai. Tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động của mình và ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình trong nền kinh tế. Khi ngân hàng không đa dạng hoá hoạt động cho vay, đa dạng hoá khách hàng, thời hạn vay tiền thì ngân hàng không thể đứng vững được trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng khác. Mặt khác, cho vay trung và dài hạn còn là công cụ cạnh tranh hiệu quả của ngân hàng nhằm thu hút doanh nghiệp về phía mình. Khi có được mối quan hệ, ngân hàng có điều kiện lôi kéo doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ khác do mình cung cấp
-Mặt khác cho vay trung và dài hạn còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn vốn huy động còn dư thừa tại mỗi ngân hàng thương mại. Đồng thời là cách để ngân hàng gọi vốn từ nền kinh tế đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp. Vì vậy cần phải nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn để giải quyết vấn đề huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, thu được lợi nhuận qua đó phát triển hoạt động của mình, tăng cường khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác.
1.1.6.3. Đối với nền kinh tế
-Cho vay trung và dài hạn thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, điều hoà lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Với chức năng là trung gian tài chính, các ngân hàng tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và cho vay đối với các đối tượng có nhu cầu điều đó được thể hiện rõ trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của ngân hàng, nó giúp các doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung hoạt động một cách liền mạch không ngắt quãng và là một kênh truyền dẫn vốn có hiệu quả. Thông qua cho vay trung và dài hạn mà xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển nền kinh tế. Hoạt động cho vay thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh chu chuyển tiền tệ, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng.
-Cho vay trung và dài hạn cũng có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, tăng tỷ trọng các ngành sản xuất vật chất là nền tảng cho phát triển kinh tế đất nước, đáp ứng nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài. Đầu tư cho vay trung dài hạn trực tiếp hay gián tiếp góp phần phát triển khoa học công nghệ, tạo công ăn việc làm, ổn định lạm phát, nâng cao đời sống của dân cư, phát triển lực lượng lao động, giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
-Cho vay trung và dài hạn tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong điều kiện hiện nay sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn với thị trường thế giới, nền kinh tế đóng trước đây đã nhường bước cho nền kinh tế mở phát triển. Cho vay trung và dài hạn đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh
tế các nước với nhau dưới các hình thức: cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay hỗ trợ phát triển, cho vay viện trợ...
Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay là nhiệm vụ có ý nghĩa với sự phát triển kinh tế trong cả hiện tại và tương lai. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết với thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay: Nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là rất lớn trong khi việc sử dụng vốn còn có nhiều bất cập, hiệu quả sử dụng vốn không cao, còn thất thoát và gây lãng phí lớn.
1.2. Nâng cao chất lượng hoạt đông cho vay trung- dài hạn đối với doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm chất lượng cho vay trung và dài hạn
Cho vay là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu và chiếm phần lớn hoạt động trong các NHTM, song không phải tất cả các ngân hàng đều thực hiện tốt hoạt động này. Một số ngân hàng gặp khó khăn trong việc quản lý và thu hồi nợ, một số khác lại gặp khó khăn trong việc không thể tìm được dự án thích hợp để cho vay hoặc gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Vì vậy, việc xem xét chất lượng hiệu quả hoạt động cho vay, nhất là cho vay trung- dài hạn là hết sức cần thiết. Chất lượng cho vay giúp các ngân hàng có thể đánh giá lại hoạt động cho vay của mình. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, thiếu sót và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay.
Chất lượng cho vay là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của doanh nghiệp có lựa chọn, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội. Chất lượng cho vay trung–dài hạn là chất lượng của các khoản vay có thời hạn trên một năm. Chất lượng cho vay trung-dài hạn đối với doanh nghiệp được đánh giá là tốt khi vốn vay được sử dụng đúng mục đích phục vụ cho các hoạt động SXKD đem lại hiệu quả, đảm bảo trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, vừa bù đắp được chi phí vừa có lợi nhuận vừa đem lại hiệu quả kinh tế cho xã hội.
Chất lượng, hiệu quả công tác cho vay trung – dài hạn được nhìn nhận từ 3 phía: ngân hàng, doanh nghiệp, và từ nền kinh tế. Nếu xét theo quan điểm của ngân hàng thì hoạt động cho vay trung–dài hạn được xem là có hiệu quả khi nó đảm bảo được 3 yếu tố: khả năng sinh lời, khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn, và khả năng thanh khoản.
-Đối với ngân hàng: Chất lượng cho vay thể hiện ở phạm vi, mức độ giới hạn cho vay phải phù hợp với thực lực theo hướng tích cực của ngân hàng và phải đảm bảo được khả năng cạnh tranh trên thị trường, làm lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng trưởng và phát triển. Chất lượng cho vay trung-dài hạn thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý, dư nợ tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn ngắn hạn, trung -dài hạn trong nền kinh tế. Một khoản vay có chất lượng là khi
ngân hàng có lợi nhuận, không bị mất vốn, không có nợ xấu từ đó gia tăng được số lượng khách hàng, doanh nghiệp, gia tăng các món vay và dư nợ.
-Đối với doanh nghiệp: Chất lượng cho vay trung- dài hạn là sự thỏa mãn, đáp ứng yêu cầu hợp lý của doanh nghiệp với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản đảm bảo thu hút doanh nghiệp nhưng vẫn tuân thủ đúng những quy định của cho vay, góp phần làm lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp, cải thiện hoạt động SXKD có hiệu quả và duy trì sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.
-Đối với nền kinh tế: Khoản cho vay trung dài hạn có chất lượng phải hỗ trợ cho hoạt động SXKD, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, vừa thúc đẩy tiêu dùng, thu hút tối đa nguồn vốn trong nước, đồng thời tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay trung- dài hạn đối với doanh nghiệp
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính
-Đối với ngân hàng
-Mức độ tuân thủ quy định của nhà nước về hoạt động cho vay: Hoạt động cho vay có chất lượng phải tuân thủ các quy định của pháp luật nhà nước: Luật các TCTD, các quy chế cho vay, các văn bản của NHNN và các văn bản có liên quan. Hoạt động của NHTM được đánh giá là có chất lượng khi ngân hàng thực hiện đúng các quy định đó. Bên cạnh việc áp dụng các văn bản pháp luật, nếu NHTM có chính sách cho vay linh hoạt và phù hợp với nền kinh tế thì sẽ nâng cao chất lượng cho vay và ngược lại. Khi tiến hành hoạt động cho vay, phải luôn đảm bảo tuân thủ các quy trình cho vay, nguyên tắc cho vay vì nó giúp phòng ngừa rủi ro, đánh giá được chất lượng cho vay. Hoạt động cho vay của NHTM dựa trên một số nhất định đảm bảo tín an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các quy định của NHNN và các NHTM như: Doanh nghiệp phải cam kết hoàn trả vốn và lãi đúng hạn, sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng, ngân hàng chỉ được tài trợ trên các dự án có hiệu quả. Ngoài ra,chất lượng cho vay còn được thể hiện thông qua trang thiết bị, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, năng lực và đạo đức nghề nghiệp có khả năng hỗ trợ đáp ứng tốt nhu cầu của doanh nghiệp, thủ tục đơn giản, thuận tiện, cung cấp vốn nhanh chóng, kịp thời và an toàn.
Nếu ngân hàng thực hiện đúng theo quy trình cho vay, thì ngân hàng có thể đánh giá đúng tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó giúp đưa ra quyết định tài trợ phù hợp, đảm bảo an toàn và hạn chế rủi ro cho ngân hàng
-Khả năng mở rộng quan hệ với khách hàng là doanh nghiệp: Với số lượng ngân hàng ngày càng gia tăng, tính cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ thì mỗi ngân hàng phải tìm cho mình một chiến lược riêng, một hướng đi phù hợp để khẳng định sức cạnh
tranh của ngân hàng. Do đó, việc mở rộng số lượng khách hàng là doanh nghiệp cũng như tăng cường việc bán chéo sản phẩm sẽ là nhân tố quan trọng có thể đánh giá chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng, mà ở đây chính là chất lượng cho vay doanh nghiệp. Các NHTM không chỉ cho vay khách hàng truyền thống, mà còn phải tìm kiếm doanh nghiệp mới. Đồng thời mở rộng đối tượng cho vay, điều đó sẽ làm cho các NHTM tăng trưởng bền vững và giúp các doanh nghiệp giải quyết được vấn đề về vốn
-Mức độ đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp: Uy tín mà ngân hàng đã tạo dựng được trong nền kinh tế và các mối quan hệ với các doanh nghiệp, thể hiện qua một số yếu tố: mức độ hài lòng; quy trình; sản phẩm cho vay đa dạng, phong phú; thỏa mãn nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp;... Chất lượng cho vay của ngân hàng với doanh nghiệp được cho là tốt khi mà ngân hàng có khả năng đáp ứng được kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của doanh nghiệp. Để đảm bảo yêu cầu trên, ngân hàng cần có hệ thống đánh giá, dự báo, phân tích nhu cầu của doanh nghiệp thật chính xác, từ đó nâng cao chất lượng cho vay. Đồng thời, việc đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý của doanh nghiệp một cách nhanh chóng giúp làm tăng thêm uy tín của ngân hàng.
-Mức độ chuyên nghiệp của cán bộ ngân hàng: Cán bộ, nhân viên là khâu quyết định hiệu quả kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Kết quả này phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tính năng động sáng tạo, đạo đức nghề nghiệp, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng, đó cũng là những vấn đề mà doanh nghiệp mong muốn nhất từ phía ngân hàng. Do vậy, để chất lượng cho vay trung- dài hạn đối với doanh nghiệp đạt kết quả tốt và tao được hình ảnh thân thiện thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên chính là một giải pháp quan trọng, có giá trị trong mọi giai đoạn phát triển của ngân hàng.
-Đối với doanh nghiệp
-Mức độ cải thiện tình hình SXKD sau khi sử dụng vốn vay: Do nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp là để đầu tư, nâng cấp, mở rộng hoạt động SXKD nên chất lượng cho vay còn được đánh giá sau khi doanh nghiệp nhận được vốn vay từ ngân hàng. Việc doanh nghiệp có sử dụng vốn vay đúng mục đích để tạo ra lợi nhuận, cải thiện được tình hình SXKD hay không sẽ quyết định khả năng trả nợ vốn và lãi đúng hạn cho ngân hàng, từ đó thấy được chất lượng cho vay trung-dài hạn của ngân hàng là cao hay thấp.
-Mức độ thỏa mãn của doanh nghiệp khi vay vốn: Sự hài lòng của doanh nghiệp được thể hiện qua những kì vọng mà doanh nghiệp vay vốn, đó là luôn được vay vốn với số tiền lớn, lãi suất thấp, thời gian vay vốn phù hợp với nhu cầu kinh doanh, thủ tục vay nhanh chóng, đơn giản,... Khi doanh nghiệp cảm thấy thỏa mãn nhu cầu của mình thì sẽ trở thành khách hàng trung thành, đồng thời mở rộng thêm nhiều
khách hàng là doanh nghiệp tiềm năng, từ đó nâng cao được chất lượng cho vay trung- dài hạn của ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn phải đảm bảo mức độ an toàn trong hoạt động cho vay trung- dài hạn, xem xét kỹ lưỡng sao cho có thể vừa làm doanh nghiệp được thỏa mãn mà không làm ảnh hưởng đến nguyên tắc cho vay trung- dài hạn cũng như lợi nhuận của ngân hàng.
-Đối với nền kinh tế
-Đóng góp từ chất lượng cho vay trung-dài hạn của ngân hàng vào sự phát triển kinh tế- xã hội: Hiệu quả xã hội của khoản vay đem lại là một trong những yếu tố nhằm đánh giá chất lượng cho vay, bởi vì hoạt động cho vay không chỉ hướng tới mục tiêu lợi nhuận mà còn phải đảm bảo hiệu quả xã hội. Có nghĩa là hoạt động cho vay phải phục vụ sản xuất và lưu thông theo đúng đường lối kinh tế của Đảng và nhà nước đề ra. Chất lượng cho vay trung dài hạn đối với doanh nghiệp tốt nhĩa là các doanh nghiệp đã nâng cao được hiệu quả hoạt động SXKD, đồng thời giúp cho hoạt động cho vay của các NHTM cũng hiệu quả hơn, đem lại lợi nhuận cao với mức rủi ro thấp. Vì vậy mà thúc đẩy được nền kinh tế phát triển, đẩy lùi lạm phát, thực hiện ổn định tiền tệ.
-Khả năng tạo thêm công ăn việc làm tại địa bàn: Khi dự án SXKD của doanh nghiệp được đưa vào thực hiện sẽ giải quyết được vấn đề việc làm cho người lao động tại địa bàn. Với những dự án mới đi vào hoạt động, tạo việc làm cho những lao động mới, giải quyết được vấn đề thất nghiệp. Đối với những dự án nhằm mở rộng duy trì hoạt động SXKD sẵn có thì sẽ tạo thêm việc làm cho công nhân viên, giải quyết vấn đề dư thừa lao động. Do đó, việc cho vay trung-dài hạn đối với doanh nghiệp sẽ được đánh giá là có chất lượng cao nếu đóng góp phần tăng lượng người lao động có việc làm.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
Ngoài các chỉ tiêu định tính, chất lượng cho vay trung và dài hạn còn được đánh giá một cách cụ thể thông qua các chỉ tiêu định lượng.
-Đối với ngân hàng
-Chỉ tiêu dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp: Phản ánh lượng vốn trung và dài hạn của ngân hàng đã được giải ngân tại một thời điểm cụ thể. Dư nợ cho vay trung và dài lớn cho thấy ngân hàng có quy mô cho vay lớn, có uy tín lớn với doanh nghiệp.
+ Tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp | Dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp |
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp tại ngân hàng vietcombank chi nhánh thành công - 1
- Thực Trạng Chất Lượng Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Vietcombank Chi Nhánh Thành Công
- Thực Trạng Hoạt Động Cho Vay Trung -Dài Hạn Đối Với Doanh Nghiệp Tại Vietcombank Thành Công
- Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp tại ngân hàng vietcombank chi nhánh thành công - 5
- Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp tại ngân hàng vietcombank chi nhánh thành công - 6
Xem toàn bộ 55 trang tài liệu này.
=
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ trọng này cho thấy biến động tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp so với tổng dư nợ cho vay của ngân hàng trong từng thời kỳ. Thông qua
tỷ trọng này ta có thể đánh giá được chất lượng cho và dài hạn đối với doanh nghiệp của ngân hàng. Tỷ trọng này cao thể hiện sự chú ý phát triển cho vay trung và dài hạn của ngân hàng, quy mô cho vay trung và dài hạn của ngân hàng là lớn. Quy mô cho vay trung vay tăng lên là cơ sở để nâng cao chất lượng. Tuy nhiên, hoạt động cho vay có rất nhiều rủi ro tiềm tàng mà dư nợ lại lớn vì vậy các ngân hàng sẽ căn cứ vào những đặc điểm về nguồn vốn, khả năng quản lý, trình độ chuyên môn của mình để xác định tỷ lệ này thật phù hợp.
-Chỉ tiêu nợ quá hạn đối với doanh nghiệp: Là những khoản nợ mà doanh nghiệp không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng cho vay, hoặc ngân hàng phát hiện doanh nghiệp sử dụng tiền vay sai mục đích, hoặc tài sản đảm bảo bị giảm giá trị, hoặc doanh nghiệp phá sản... Trong trường hợp này doanh nghiệp sẽ phải chịu lãi suất quá hạn cao hơn nhiều so với lãi suất vay đã được thoả thuận trong hợp đồng cho vay và không ngân hàng nào mong muốn nhận được khoản lãi cao này. Nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá chất lượng cho vay, chất lượng cho vay của ngân hàng, đồng thời phản ánh những rủi ro mà ngân hàng đang phải đối mặt.
Các khoản dư nợ cho vay doanh nghiệp của ngân hàng được phân loại từ Nhóm 1 đến Nhóm 5 như sau:
- Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn): gồm các khoản nợ trong hạn mà TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn hoặc các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày
- Nhóm 2 (nợ cần chú ý): gồm các khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày và các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu
- Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): gồm các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu. Trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 và các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do doanh nghiệp không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng cho vay
- Nhóm 4 (nợ nghi ngờ): gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
- Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn): Gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại lần đầu, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn và các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
Như vậy, các khoản nợ được phân loại từ nhóm 2 đến nhóm 5 là nợ quá hạn.
+ Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn đối với doanh nghiệp | Dư nợ quá hạn trung và dài hạn đối với doanh nghiệp |
=
Tổng dư nợ trung và dài hạn
Nợ quá hạn trung và dài hạn đối với doanh nghiệp là các khoản nợ mà doanh nghiệp không trả được cho ngân hàng khi đến hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của ngân hàng trong cho vay trung và dài hạn. Tỷ lệ này tỷ lệ nghịch với chất lượng cho vay của ngân hàng. Tỷ lệ này cao cho thấy chất lượng cho vay của ngân hàng càng thấp và mức độ rủi ro cao, do dó tất cả các ngân hàng đều mong muốn hạ thấp tỷ lệ này xuống đến mức thấp nhất có thể. Tuy nhiên trên thực tế để đạt được điều đó là rất khó, nên các ngân hàng thường chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định trong giới hạn an toàn. Theo một số chuyên gia thì nếu duy trì tỷ lệ nợ quá hạn ở mức dưới 3% là có thể chấp nhận được, còn nếu dưới 1% thì có thể coi là lý tưởng.
-Chỉ tiêu nợ xấu: Là các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ), nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố: đã quá hạn 90 ngày và khả năng trả nợ đáng lo ngại (theo chuẩn mực kế toán Việt Nam).
+ Tỷ lệ nợ xấu trung và dài hạn đối với doanh nghiệp | Nợ xấu trung và dài hạn đối với doanh nghiệp |
=
Tổng dư nợ trung và dài hạn
Cùng với chỉ tiêu nợ quá hạn, chỉ tiêu nợ xấu trung và dài hạn cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp. Trong đó nợ xấu là khoản nợ trong hạn cũng như quá hạn nhưng được ngân hàng đánh giá là không có khả năng hoàn trả. Tỷ lệ này càng cao cho thấy rủi ro từ hoạt động cho vay này càng lớn, hiệu quả hoạt động không cao. Để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay trung- dài hạn đối với doanh nghiệp cần đưa ra các biện pháp để giảm thiểu tỷ lệ này.
-Hệ số sử dụng vốn trung- dài hạn: Phản ánh khả năng sử dụng nguồn vốn trung- dài hạn huy động được dùng để cho vay trung dài hạn là cao hay thấp.
+ Hệ số sử dụng vốn trung và dài hạn đối với
doanh nghiệp =
Tổng dư nợ quá hạn trung- dài hạn đối với doanh nghiệp
Tổng nguồn vốn huy động trung và dài hạn
-Chỉ tiêu vòng quay vốn cho vay trung- dài hạn: Phản ánh vòng quay của khoản cho vay là nhanh hay chậm, ngân hàng thu nợ được bao nhiêu để có thể tiếp tục đầu tư vào dự án mới.
+ Vòng quay vốn =
Doanh số thu nợ quá hạn trung- dài hạn đối với
doanh nghiệp
Dư nợ cho vay trung- dài hạn bình quân đối với doanh nghiệp
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ giữa doanh số cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp và dư nợ cho vay trung- dài hạn bình quân đối với doanh nghiệp, qua đó có thể thấy được khả năng mở rộng cho vay trung và dài hạn cũng như hiệu quả công tác thu nợ của ngân hàng. Chỉ tiêu quay vòng vốn thường nhỏ hơn 1 do thời gian vay dài nên dư nợ bình quân trong một năm sẽ lớn hơn doanh số cho vay trong cũng năm đó. Chỉ tiêu càng gần 1 chứng tỏ hoạt động cho vay và công tác thu nợ của ngân hàng đối với các khoản vay đó có chất lượng tốt, bởi điều đó chỉ đạt được khi quy mô cho vay được mở rộng và hầu hết các khoản vay đến hạn trong năm đó đều được thu hồi đầy đủ. Ngược lại, nếu tỷ lệ này thấp chứng tỏ hạt động cho vay hay thu nợ đều gặp khó khăn.
-Chỉ tiêu lợi nhuận: Đối với các NHTM, mục tiêu lớn nhất là mục tiêu lợi nhuận. Hầu hết các hoạt động của ngân hàng đều nhằm đạt được mục tiêu này. Vì vậy, khi đánh giá chất lượng cho vay trung và dài hạn thì không thể không xem xét đến lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động này.
Lợi nhuận cho vay trung- dài hạn đối với
doanh nghiệp
+ Tỷ lệ lợi nhuận =
Tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp
Chỉ tiêu này cho thấy khả năng sinh lời của các khoản cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp. Cho biết một đồng dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp đem lại cho ngân hàng bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tất cả các khoản cho vay dù ngắn hay dài hạn đều không thể nói là có chất lượng cao nếu như không đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ khoản cho vay trung- dài hạn đối với doanh nghiệp là lớn, chất lượng cho vay trung và dài hạn của ngân hàng tốt. Đặc biệt với những ngân hàng chưa phát triển các dịch vụ thì hoạt động cho vay là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng.
+ Tỷ trọng lợi nhuận
Lợi nhuận cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp
=
Tổng lợi nhuận của ngân hàng
Tỷ trọng giữa lợi nhuận từ hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp và tổng lợi nhuận của ngân hàng cho phép đánh giá được tầm quan trọng của hoạt động cho vay trung và dài hạn trong mối quan hệ với toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhuận của ngân hàng phần lớn đạt được là từ hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp của ngân hàng. Điều này cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng đang phải đối mặt với những nguy cơ rủi ro từ hoạt động này. Vì vậy mà yêu cầu cấp thiết là ngân hàng phải quản lý hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp một cách khoa học, chặt chẽ, đảm bảo an toàn tối đa.
-Chỉ tiêu tài sản đảm bảo: Là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên đi vay dùng để đảm bảo với bên cho vay về khả năng hoàn trả nợ của mình.
Dư nợ trung và dài hạn đối với
+ Tỷ lệ dư nợ trung và
dài hạn đối với doanh = nghiệp có TSĐB
doanh nghiệp có TSĐB
Dư nợ trung và dài hạn đối với doanh nghiệp
Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp có bảo đảm bằng tài sản đang được xem là tiêu chuẩn quan trọng của ngân hàng trong việc cho vay, việc cho vay sẽ cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều nếu nó được đảm bảo bằng tài sản, đặc biệt là những tài sản hữu hình bởi nó giảm bớt rủi ro cho ngân hàng khi doanh nghiệp vì một lý do nào đó không thanh toán được nợ cho ngân hàng. Trong khi về mặt nguyên lý, tài sản đảm bảo chỉ là một yếu tố có giá trị tham chiếu trong các quyết định cho vay.
-Chỉ tiêu dự phòng rủi ro (DPRR):
Quỹ dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do doanh nghiệp của ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí của ngân hàng. Xử lý bằng quỹ DPRR cho vay là việc ngân hàng sử dụng quỹ DPRR đã trích lập để xử lý chuyển hạch toán ngoại bảng đối với các khoản nợ không còn hoặc rất khó có khả năng thu hồi. Việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro cho vay không phải xóa nợ cho doanh nghiệp. Sau khi khoản nợ được xử lý bằng quỹ DPRR và chuyển hạch toán ngoại bảng, ngân hàng tiếp tục tìm mọi biện pháp đôn đốc thu hồi nợ (gốc và lãi), tránh tổn thất cho ngân hàng. Do đó chỉ tiêu này cũng phản ánh chất lượng cho vay nói chung và cho vay trung và dài hạn nói riêng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay trung và dài hạn
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Các nhân tố từ phía ngân hàng
Đây là những nhân tố thuộc về bản thân, nội tại ngân hàng liên quan đến sự phát triển của ngân hàng trên tất cả các mặt ảnh hưởng tới hoạt động cho vay, gồm: chính sách, công tác tổ chức, trình độ lao động, quy trình nghiệp vụ, kiểm tra, kiểm soát và trang thiết bị.
-Chính sách cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp: Khi thực hiện cho vay, NHTM luôn đưa ra những ràng buộc đối với doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo an toàn cho khoản vay và đảm bảo ngân hàng sẽ thu được gốc và lãi vay theo đúng thời hạn. Trong hồ sơ vay vốn ngân hàng, bên cạnh giấy đề nghị vay vốn, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp có các giấy tờ chứng minh pháp lý, báo cáo chứng minh tài chính, giấy tờ tài sản đảm bảo. Khi những giấy tờ đó đạt yêu cầu thì doanh nghiệp mới được vay vốn. Chính sách cho vay vốn chính là công cụ để đảm bảo đạt mục tiêu chung của ngân hàng đi đúng quỹ đạo, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của ngân hàng đó. Các ngân hàng khác nhau với những cơ chế hoạt động khác nhau có mức độ khắt khe trong điều kiện vay vốn khác nhau. Nếu trong một nền kinh tế đang tăng trưởng tốt, các doanh nghiệp hoạt động tốt, có hiệu quả và khả năng trả nợ cao thì ngân hàng hoàn toàn có thể nới lỏng điều kiện vay vốn lỏng hơn, những yêu cầu tình hình tài chính hay tài sản đảm bảo ít khắt khe hơn để có nhiều cơ hội mở rộng cho vay. Ngược lại, ngân hàng thực hiện điều kiện cho vay vốn quá khắt khe sẽ khiến cho các doanh nghiệp e dè trong việc lập hồ sơ vay vốn. Vì vậy, một chính sách cho vay đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng là doanh nghiệp, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động cho vay. Bất cứ ngân hàng nào muốn có chất lượng cho vay cao đều phải có chính sách cho vay phù hợp với điều kiện của ngân hàng, của thị trường.
-Quy trình cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp: Bao gồm các quy định phải được thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn. Chất lượng cho vay có được bảo đảm hay không phụ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định ở trong từng bước. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình cho vay đảm bảo vốn được luân chuyển bình thường, đúng kế hoạch. Ngoài ra, việc linh hoạt trong quy trình cho vay sẽ tạo cảm tình cho doanh nghiệp và từ đó chất lượng cho vay được nâng cao.
-Chất lượng công tác thẩm định DAĐT của doanh nghiệp: Khi mở rộng cho vay trung- dài hạn đối với doanh nghiệp, cùng với sự tăng lên về quy mô vốn vay, ngân hàng luôn phải đối mặt với nguy cơ rủi ro tăng cao. Việc mở rộng cho vay phải được xây dựng trên cơ sở nâng cao sự an toàn cho ngân hàng. Để thực hiện điều đó,
chất lượng hoạt động thẩm định là chìa khóa dẫn tới thành công cho ngân hàng. Chất lượng hoạt động thẩm định là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của mở rộng cho vay. Ngân hàng thẩm định DAĐT của doanh nghiệp nhằm rút ra những kết luận chính xác về tính khả thi của dự án, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra của dự án để ra những quyết định cho vay hay từ chối. Đây là cơ sở để xác định số tiền, thời hạn cho vay, lãi suất hợp lý tạo điều kiện cho dự án hoạt động có hiệu quả. Hoạt động cho vay được xây dựng trên cơ sở chất lượng thẩm định tốt sẽ mang lại các quyết định chính xác, mức độ an toàn cao, đảm bảo thu hồi vốn và lợi nhuận cho ngân hàng. Ngược lại, nếu hoạt động thẩm định không hiệu quả, việc mở rộng cho vay sẽ phải đối mặt với nguy cơ rủi ro tiềm tàng rất lớn. Nhìn chung, hoạt động thẩm định là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và rõ ràng nhất tới chất lượng và hiệu quả của ngân hàng. Nâng cao chất lượng phải đi cùng mở rộng và phải đặt trong mối quan hệ tổng thể phát triển chung của ngân hàng mới có sự phát triển toàn diện.
-Thông tin cho vay của doanh nghiệp: Là những thông tin về doanh nghiệp, môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải…Thông tin càng đầy đủ, nhanh nhạy, chính xác bao nhiêu thì khả năng phòng ngừa rủi ro của ngân hàng càng lớn, chất lượng cho vay ngày càng được nâng cao. Mặt khác, một ngân hàng với lượng thông tin phong phú có thể đưa ra những tư vấn hữu ích cho doanh nghiệp. Đây chính là yếu tố để nâng cao chất lượng cho vay.
-Công tác tổ chức của ngân hàng: Tổ chức ngân hàng cần cụ thể hóa và sắp xếp có tính khoa học, tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc đã quy định.
Ngân hàng tổ chức một cách có khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, giữa các ngân hàng với nhau trong toàn hệ thống ngân hàng cũng như với các cơ quan liên quan khác. Qua đó, tạo điều kiện đáp ứng kịp thời các yêu cầu của doanh nghiệp, quản lý có hiệu quả các khoản vốn, phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản cho vay có vấn đề từ đó nâng cao chất lượng cho vay.
-Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng: Là yêu cầu hàng đầu đối với mỗi ngân hàng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoạt động và khả năng tạo lợi nhuận của ngân hàng. Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung. Kinh tế càng phát triển, các quan hệ kinh tế càng phức tạp, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi hỏi trình độ của người lao động càng cao. Đội ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức, có năng lực sẽ là điều kiện tiền đề để ngân hàng tồn tại và phát triển. Nếu chất lượng con người tốt thì họ sẽ thực hiện tốt các nhiệm vụ trong việc thẩm định dự án, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền vay và có các biện pháp hữu hiệu trong việc thu hồi nợ vay, hay xử lý các tình huống phát sinh trong quan hệ cho vay của