2.2.5.2. Tồn tại và hạn chế
Cơ cấu nguồn chưa hợp lý, chưa phù hợp. Hiện nay việc tăng trưởng nguồn vốn nhất là trung hạn và dài hạn trong dân cư và huy động từ nguồn tiền gửi của khách hàng vẫn là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, là khâu mở đường cho hoạt động kinh doanh của NHCT KV Chương Dương. Để huy động vốn thì phải đảm bảo lợi ích của người gửi có lãi suất huy động cao, nhưng cho vay đầu tư cũng với lãi suất cao thì doanh nghiệp không chấp nhận được. Đây là vấn đề khó khăn tạo sức ép đối với Ngân hàng trong khi phải giữ vững và phát huy vai trò của Ngân hàng trong việc đầu tư và phát triển.
Hành lang pháp lý trong hoạt động tín dụng chưa thật sự đồng bộ, chưa phù hợp, có văn bản hướng dẫn nhưng chưa đi vào cuộc sống, dẫn đến bất cập khi triển khai: nhất là trong việc xác định, đánh giá pháp lý của tài sản đảm bảo tiền vay.
Có lúc ở từng bộ phận, do chưa nhận thức đầy đủ về tăng trưởng, buông lỏng điều kiện tín dụng là tăng nguy cơ tiềm ẩn rủi ro. Việc phân tích đánh giá thực trạng tín dụng chưa được thực hiện triệt để, chưa phản ánh chính xác chất lượng; nhất là khối các doanh nghiệp xây lắp và những đơn vị có những khoản nợ tồn đọng, sản phẩm dở dang lớn; chưa kiên quyết trong công tác xử lý tồn đọng, nợ xấu.
Công tác đánh giá phân loại khách hàng, phân tích hoạt động sản suất kinh doanh, năng lực tài chính của khách hàng còn chưa được thường xuyên và quan tâm đúng mức để từ đó đưa ra những chính sách tín dụng phù hợp, kịp thời. Chất lượng cán bộ còn nhiều bất cập, lực lượng trẻ nhiều, song còn thiếu kinh nghiệm trong công tác tín dụng.
Hệ thống thông tin tín dụng còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến công tác quản lý, điều hành và việc cập nhật thông tin phục vụ cho công tác thẩm định, nên khả năng nghiên cứu, đánh giá khách hàng, dự báo tình hình tín dụng còn yếu, bị động, có lúc còn bị lỡ cơ hội.
Việc chuyển dịch cơ cấu khách hàng theo thành phần kinh tế, theo nghành, lĩnh vực sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu, còn mang tư tưởng khách hàng truyền thống, hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp, đã và đang chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro.
Sự phối hợp, tìm hiểu thông tin về khách hàng giữa các Ngân hàng trong và ngoài hệ thống chưa tốt, dẫn đến tình trạng không kiểm soát được hoạt động SKKD của doanh nghiệp, là nguyên nhân chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro.
Quá trình thực hiện các quy chế, quy trình, việc tuân thủ các hành lang pháp lý có lúc có nơi chưa nghiêm, nể nang khách hàng, xuề xoà trong nội bộ dẫn đến thiếu sót trong hồ sơ, sơ suất trong xử lý nghiệp vụ.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách tiền tệ là thử thách lớn cho hoạt động của ngành ngân hàng, đặc biệt đối với NHCT KV Chương Dương, phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư trung và dài hạn trong khi vốn trung và dài hạn còn ít, nên phải dùng một phần nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ tín dụng trung, dài hạn. Tuy đã được chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cho phép nhưng điều này cũng có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương
- Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Khu Vực Chương Dương Trong Thời Gian Qua
- Tình Hình Cho Vay Trung Và Dài Hạn Theo Thành Phần Kinh Tế
- Các Biện Pháp Về Công Tác Thẩm Định Dự Án Và Quyết Định Cho Vay
- Áp Dụng Một Qui Trình Giám Sát Chặt Chẽ Và Khoa Học
- Nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Chương Dương - 9
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
Là một ngân hàng có bề dày truyền thống về đầu tư xây dựng cơ bản nhưng công tác kinh tế kỹ thuật và tư vấn đầu tư thực hiện chưa được tốt. Việc phân tích đúc rút kinh nghiệm về tín dụng đầu tư còn quá ít, chưa có tính thống nhất, chưa ngang tầm với yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động.
* Một số nguyên nhân chủ yếu
Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Trong hoạt động tín dụng hai yếu tố rủi ro và lợi nhuận luôn là bạn đồng hành. Nếu ngân hàng chỉ chạy theo lợi nhuận cao mà thiếu sự thận trọng cần thiết thì có thể sẽ phải trả giá đắt cho những rủi ro gặp phải, nhưng ngược lại vì rủi ro mà không dám mở rộng cho vay thì có thể sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh, mất đi nhiều khách hàng tốt. Đây là vấn đề nan giải mà hiện nay NHCT KV Chương Dương đang gặp phải. Vì mục tiêu an toàn vốn nên NHCT KV Chương Dương có xu hướng thu hẹp tín dụng đối với các doanh nghiệp không thuộc nhà nước. Vẫn biết cho vay đối với các doanh nghiệp này thời gian qua gặp nhiều rủi ro, song không phải mọi doanh nghiệp đều như nhau. Đây là điểm ngân hàng nên chú ý hơn trong thời gian tới.
Hoạt động Marketing trong ngân hàng chưa được quan tâm chú ý. Hoạt động này mới chỉ được thực hiện đơn thuần dưới dạng các hoạt động bề nổi như tuyên truyền, quảng cáo, chứ chưa thực sự xuất phát từ việc nghiên cứu nắm bắt nhu cầu
khách hàng để tìm cách thoả mãn tốt nhất nhu cầu đó. Lâu nay hoạt động Marketing vẫn thường được coi là nhiệm vụ của các nhân viên giao dịch, trong khi đó mạng lưới thông tin về khách hàng còn yếu kém, ít áp dụng công nghệ thông tin vào việc thu thập các yếu tố về khách hàng, sản phẩm, dịch vụ …..
Nguyên nhân từ phía khách hàng
Khả năng của các doanh nghiệp trong việc đáp ứng các yêu cầu về chế độ tín dụng trung dài hạn của ngân hàng còn thấp. Vướng mắc chủ yếu thường gặp phải là doanh nghiệp không có đủ vốn theo chế độ, không đủ tài sản thế chấp theo quy định đối với doanh nghiệp không thuộc nhà nước, không có nhiều dự án khả thi. Để đảm bảo nguyên tắc an toàn, ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp vay vốn phải có vốn tự có tối thiểu tham gia vào dự án (mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật tối thiểu là 10%, xây dựng cơ bản mới 30%, phục vụ đời sống 40%) nhưng phổ biến là các doanh nghiệp không thực hiện được. Về tài sản thế chấp, theo tính toán hiện nay thì chỉ có 20% giá trị tài sản của các doanh nghiệp có thể sử dụng làm tài sản thế chấp hợp pháp, con số này là quá nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp.
Về dự án sản xuất kinh doanh, có nhiều doanh nghiệp lập được các phương án kinh tế khá tốt nhưng do không cụ thể hoá được thành các dự án khả thi, nên cũng không được ngân hàng cho vay vốn.
Khả năng quản lý và sử dụng vốn vay của doanh nghiệp còn thấp, cộng với tình trạng làm ăn thiếu trung thực thường xuyên xảy ra giữa các doanh nghiệp không thuộc nhà nước với nhau và với các ngân hàng, biểu hiện ở việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, cung cấp thông tin không chính xác cho ngân hàng, lừa đảo chiếm dụng vỗn lẫn nhau… là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Nguyên nhân khác
Môi trường pháp lý về hoạt động tín dụng trung, dài hạn chưa đầy đủ và đồng bộ, chính sách tín dụng còn nhiều thiếu sót, khả năng thực thi của các luật về tài sản thế chấp còn yếu. Bên cạnh đó hiệu lực pháp lý của các cơ quan hành pháp chưa đủ mạnh để giải quyết các tranh chấp, tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, phát mại tài sản thế chấp.
Hoạt động cho vay trung, dài hạn còn chịu sự chi phối của nhiều cấp nhiều ngành, vì vậy mà khi có một dự án cho vay theo chỉ định không có hiệu quả, nhưng ngân hàng vẫn phải cho vay , mặc dù ngân hàng biết rằng dự án này không đạt yêu cầu về thẩm định. Từ đó khiến cho hoạt động cho vay trung, dài hạn gặp nhiều khó khăn, làm giảm chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Một vấn đề nữa là mặc dù Chính phủ đã quy định các ngân hàng thương mại có quyền tự chủ quyết định về việc cho vay của mình và chịu trách nhiệm về các quyết định đó, song trên thực tế không phải lúc nào ngân hàng cũng có được quyền chủ đọng đó. Có nhiều khi do những tác động từ nhiều phía như chính quyền địa phương nên ngân hàng vẫn phải cho vay những dự án có thể đem lại rủi ro cho ngân hàng.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có cơ quan chuyên trách về xếp hạng tín nhiệm đối với các doanh nghiệp, vì vậy ngân hàng thiếu thông tin khi xem xét đánh giá khách hàng để quyết định cho vay. Điều đó một mặt hạn chế khả năng mở rộng tín dụng, mặt khác làm tăng thêm tình trạng rủi ro tín dụng của các Ngân hàng, do đánh giá khách hàng không chính xác khiến cho chất lượng tín dụng không được cao.
Qua phần thực trạng, ta thấy được những kết quả đạt được và những khó khăn còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh nói chung, nhưng trước hết là cho vay trung và dài hạn của Chi nhánh trong vài năm gần đây. Những khó khăn, thử thách trong hoạt động tín dụng trung dài hạn, đòi hỏi Chi nhánh phải có những biện pháp tích cực để sớm khắc phục.
CHƯƠNG 3:GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
KHU VỰC CHƯƠNG DƯƠNG
3.1. Phương hướng phát triển cho vay trung và dài hạn của ngân hàng Công thương KV Chương Dương
3.1.1. Kế hoạch kinh doanh năm 2009
Kết thúc năm 2008, với sự nỗ lực phấn đấu, cố gắng tích cực của toàn thể CBCNV, Chi nhánh NHCT Chương Dương đã đạt được kết quả kinh doanh hết sức ấn tượng với nhiều thành tích xuất sắc, các chỉ tiêu về quy mô, tốc độ tăng trưởng, chất lượng và hiệu quả đều tăng cao hơn năm trước. Tình hình tài chính lành mạnh, các hoạt động kinh doanh nghiệp vụ, dịch vụ được đổi mới, phát triển đúng định hướng của Chi nhánh. Năm 2009, với khẩu hiệu đề ra “Năng động – sáng tạo – an toàn – hiệu quả”, Chi nhánh NHCT Chương Dương sẽ đạt được nhiều thành tích cao hơn góp phần vào công cuộc xây dựng NHCT Việt Nam: An toàn – Hiệu quả - Hiện đại và Hội nhập.
Trong bối cảnh nền kinh tế trong năm 2009 có nhiều mặt biến động bất lợi, hoạt động kinh doanh tiền tệ ẩn nhiều khó khăn vì vậy chi nhánh NHCT Chương Dương đề ra các chỉ tiêu kế hoạch năm 2009 như sau:
Tổng vốn huy động: 6.500 tỷ đồng. Tổng dư nợ và đầu tư: 3.200 tỷ đồng.
Tỷ lệ cho vay không có bản đảm tài sản: 35%.
Tỷ lệ cho vay DNNN: 65%.
Thu hồi nợ đã xử lý rủi ro ngoại bảng: 20 tỷ đồng. Thu dịch vụ ngân hàng: 17 tỷ đồng.
Lợi nhuận đã trích DPRR: 188 tỷ đồng.
Từ những mục tiêu trên đây, NH hình thành các phương hướng sau:
- Huy động vốn: Đánh giá phân tích thị trường, tìm kiếm khách hàng có tiềm năng về vốn, có nguồn tiền gửi lớn (gồm các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế chính trị xã hội, đoàn thể), tạo ra nhiều kênh huy động vốn mới. Việc tăng trưởng nguồn vốn phải gắn liền với nâng cao chất lượng nguồn vốn để tránh rủi ro về lãi suất.
- Tăng trưởng tín dụng đầu tư, phát triển dư nợ mới, khách hàng mới, đảm bảo chất lượng, an toàn, hiệu quả, bền vững: Chất lượng tín dụng phải đảm bảo, không có nợ xấu và nợ tồn đọng. Mặt khác tìm kiếm thị trường trên cơ sở đánh giá từng ngành kinh tế, từng lĩnh vực hoạt động theo từng nhóm khách hàng để đưa ra định hướng chọn lọc khách hàng theo hướng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay các doanh nghiệp có phương án kinh doanh hiệu quả, có vốn chủ sở hữu tham gia lớn, có triển vọng phát triển lâu dài, có tín nhiệm với Ngân hàng, sử dụng vốn đúng mục đích, trả nợ và thanh toán đúng hạn. Ưu tiên tài trợ các doanh nghiệp xuất khẩu.
- Phát triển thị phần thu dịch vụ phí phi tín dụng và các dịch vụ tài chính ngân hàng: Cung ứng cho nền kinh tế các sản phẩm dịch vụ mới đa dạng, phong phú với nhiều tiện ích, chất lượng cao và hiệu quả, có sự khác biệt và tính cạnh tranh cao so với các ngân hàng thương mại khác. Tập trung thực hiện các dịch vụ ngân hàng hoàn hảo với mục tiêu: phát hành thẻ ghi nợ trong năm 2009 là 12000 thẻ, phát hành thẻ tín dụng quốc tế 110 thẻ, đặt thêm 15 cơ sở chấp nhận thẻ với chỉ tiêu doanh số thanh toán thẻ là 20 tỷ đồng. Tăng cường hoạt động mua bán ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu, mục tiêu đạt được doanh số mua bán 250 triệu USD. Bên cạnh đó tăng cường các dịch vụ bán lẻ để thu phí dịch vụ như chuyển tiền trong và ngoài nước, giải ngân các dự án có nguồn hỗ trợ tín dụng quốc tế…tăng cường hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu với mục tiêu mở được 600 L/C hàng nhập và 200 L/C hàng xuất.
- Đặc biệt coi trọng công tác cán bộ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Xây dựng được đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao, có đủ bản lĩnh và năng lực chuyên môn để hoàn thành tốt công việc đảm nhiệm. Chú trọng tuyển dụng được nhiền cán bộ trả tài năng, có chích sách đãi ngộ và tiền lương xứng đáng.
- Tăng cường chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ: Hoạt động ngân hàng là ngành kinh tế trọng yếu và nhạy cảm, vì vậy tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng rất tinh vi, nghiêm trọng và khó lường. Do đó, các quy chế, quy trình nghiệp vụ phải được kiểm soát chặt chẽ, đúng pháp luật. Phát triển nghiệp vụ mới phải đi đôi với khả năng kiểm soát được rủi ro.
-Phát huy sức mạnh tập thể, nâng cao vai trò lãnh đạo chỉ đạo của Đảng: Quán triệt và thực hiện hai luật lớn của Nhà nước và Chính phủ là chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm chống lãnh phí. Thực hiện tối quy chế dân chủ cơ sở, đoàn kết, công khai, chăm lo và cải thiện đời sống sinh hoạt, điều kiện làm việc của cán bộ và người lao động. Tổ chức có kết quả các phong trào thi đua, tạo không khí phấn khởi, tươi vui, hăng hái, hoạt động kinh doanh đạt kết quả cao.
3.1.2. Phương hướng phát triển cho vay trung và dài hạn
Nằm trong kế hoạch phát triển kinh doanh của NH, phương hướng phát triển cho vay trung và dài hạn được cụ thể hoá như sau:
Lựa chọn những dự án hậu quả của các đơn vị để xét duyệt cho vay. Khi xét duyệt dự án, lấy hiệu quả và tính khả thi của dự án là tiêu chuẩn hàng đầu.
Duy trì thường xuyên công tác đánh giá, phân loại khách hàng theo định kì (trên cơ sở các thông tin có chọn lọc), từ đó xây dựng hạn mức tín dụng cho từng khách hàng, có chính sách lãi suất phù hợp kết hợp với chính sách phát triển sản phẩm dịch vụ, theo hướng đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng để có thể gia tăng số dịch vụ cung cấp cho từng khách hàng, đồng thời tăng doanh số giao dịch.
Tăng cường thu thập thông tin về các chương trình đầu tư phát triển của thành phố, của các bộ ngành, các tổng công ty, kết hợp với tình hình hoạt động của doanh nghiệp, lên kế hoạch tiếp cận cụ thể và có các chính sách phù hợp, đáp ứng đúng nhu cầu khách hàng.
Mở rộng cho vay sang các lĩnh vực khác và các thành phần kinh tế khác như công ty cổ phần, doanh nghiệp không thuộc nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… Thí điểm lựa chọn một số công ty cổ phần đã có uy tín trong giao dịch, có khả năng tài chính để đầu tư trên cơ sở đảm bảo đúng chế độ quy định. Có kế hoạch tiếp thị và khai thác khách hàng trong các khu công nghiệp.
Thực hiện nghiêm túc luật tổ chức tín dụng và quy trình tín dụng của ngành, nâng cao vai trò công tác thẩm định dự án trong xét duyệt cho vay trung và dài hạn, tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát, nhất là đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu khó khăn ngăn chặn việc không phát sinh thêm nợ quá hạn và rủi ro trong tín dụng.
Mở rộng cho vay ngoại tệ với những khách hàng có khả năng tái tạo ngoại tệ hoặc tìm được nguồn cung ngoại tệ từ các doanh nghiệp khác, cho vay kết hợp với áp dụng các biện pháp phòng chống rủi ro tỉ giá, xác định khả năng hỗ trợ ngoại tệ của NH đối với một số khách hàng có doanh số giao dịch lớn để nâng mức tăng trưởng tín dụng một cách an toàn trên cơ sở chính sách cung ứng ngoại tệ phù hợp với tình hình cung cầu.
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Công thương KV Chương Dương
Là một trong những ngân hàng đi đầu có nhiều thành tích xuất sắc của Ngân hàng Công thương Việt Nam, NHCT KV Chương Dương không những phải thực hiện những phương hướng của toàn ngành Ngân hàng, mà còn phải thực hiện các phương hướng phát triển của cả hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra đối với NH là rất lớn. Hiện tại, hoạt động cho vay trung và dài hạn của NH còn gặp nhiều khó khăn trở ngại và có nhiều tồn tại, trong đó các trở ngại thuộc về chủ quan bản thân ngân hàng chiếm phần không nhỏ. Để giải quyết những vấn đề đó, em xin đề nghị NH áp dụng một số giải pháp sau đây để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NH.
3.2.1. Các biện pháp về nguồn vốn
Cũng như các ngân hàng thương mại, NHCT KV Chương Dương đang xảy ra tình trạng thừa vốn ngắn hạn nhưng lại thiếu vốn trung và dài hạn. Về lâu dài, để có thể mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn, NH cần từng bước tạo lập một