Ro: Chi phí sử dụng vốn lợi nhuận giữ lại
RNE: Chi phí sử dụng vốn cổ phần thường phát hành mới
a. Xác định chi phí sử dụng vốn vay dài hạn sau thuế (RL)
Chi phí sử dụng vốn vay dài hạn là khoản lãi vay phải trả cho các chủ nợ, chi phí này được tính sau thuế. Doanh nghiệp có thể huy động vốn vay dưới nhiều hình thức như vay của các tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu.
Nếu doanh nghiệp huy động vốn bằng hình thức vay của các tổ chức tín dụng thì tỷ suất lãi vay phải trả trên hợp đồng tín dụng chính là chi phí sử dụng vốn vay.
Nếu doanh nghiệp huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu thì doanh thu phát hành thuần từ bán trái phiếu là khoản tiền mà doanh nghiệp thực sự nhận được từ việc phát hành trái phiếu này sau khi trừ đi các chi phí phát hành.
Chi phí sử dụng vốn vay trước thuế R*L được xác định bằng công thức gần đúng như sau:
R*L ={LV + (MG-GT)/KH}/{(MG+GT)/2}
Trong đó:
LV: lãi vay trả hàng năm
Có thể bạn quan tâm!
- Thẩm Định Về Phương Thức Tổ Chức, Quản Lý Thực Hiện Dự Án
- Định Hướng Hoàn Thiện Thẩm Định Cho Vay Dự Án Đầu Tư Tại
- Hoàn Thiện Cẩm Nang Thẩm Định Cho Vay Dự Án Đầu Tư
- Đối Với Chính Phủ Và Các Bộ Ngành Liên Quan
- Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định cho vay dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 15
- Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định cho vay dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.
MG: Mệnh giá của trái phiếu GT: Giá thị trường của trái phiếu KH : Kỳ hạn của trái phiếu
Chi phí sử dụng vốn vay dài hạn sau thuế:
RL = R*L (1-T)
T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
b. Xác định chi phí sử dụng vốn cổ phần ưu đãi (RP)
Cổ phần ưu đãi là nguồn vốn đặc biệt trong doanh nghiệp, các cổ đông ưu đãi sẽ nhận cổ tức cố định theo thứ tự ưu tiên sau các chủ nợ, cổ phần ưu đãi là một nguồn tài trợ vốn chủ sở hữu nên doanh thu từ phát hành các cổ phần ưu đãi là vĩnh viễn.
Cổ tức cổ phần ưu đãi (CT) là cố định được xác định theo mức cổ tức chi
trả hàng năm cho các cổ đông ưu đãi:
RP = CT/DT
DT: Doanh thu thuần từ việc phát hành cổ phần ưu đãi CT: Cổ tức cổ phần ưu đãi
Vì cổ tức cổ phần ưu đãi được chi trả từ dòng tiền sau thuế nên chi phí này là chi phí sau thuế ta không cần phải điều chỉnh như chi phí sử dụng vốn vay dài hạn ở trên.
c. Xác định chi phí sử dụng vốn cổ phần thường (RE)
Chi phí sử dụng vốn cổ phần thường là tỷ suất sinh lợi trên mỗi cổ phần do các nhà đầu tư trên thị trường vốn kỳ vọng. Có hai dạng tài trợ dưới dạng cổ phần thường là: thu nhập giữ lại và phát hành mới cổ phần thường. Chi phí sử dụng vốn cổ phần thường RE là mức tỷ lệ lãi suất chiết khấu mà nhà đầu tư chiết khấu các khoản thu nhập cổ tức mong đợi để xác định giá trị cổ phần thường của công ty. Việc xác định chi phí sử dụng vốn cổ phần thường là được thực hiện bằng mô hình định giá tăng trưởng đều (mô hình Gordon)
Mô hình định giá tăng trưởng đều (mô hình Gordon):
D
P =
Trong đó:
RE - G
P: Giá cổ phần thường
D: Cổ tức dự kiến vào cuối năm 1
RE: Tỷ suất sinh lợi mong đợi của cổ phiếu
G : Tỷ lệ tăng trưởng đều hàng năm trong cổ tức
Từ phương trình trên ta có:
D
RE = + G P
Trong đó:
G = Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại x ROE
Tuy nhiên G không phải cố định qua các năm mà luôn luôn thay đổi do đó cần phải tính toán lại chỉ tiêu G khi xác định tỷ suất sinh lợi mong đợi qua các năm của cổ phiếu. Ngoài ra, vì cổ tức cổ phần thường được chi trả từ thu nhập sau thuế nên không cần phải điều chỉnh sau thuế.
d. Xác định chi phí sử dụng vốn từ thu nhập giữ lại (Ro)
Chi phí của thu nhập giữ lại đối với một doanh nghiệp tương tự như chi phí sử dụng vốn cổ phần thường. Thu nhập giữ lại làm gia tăng vốn cổ phần thường tương tự như hình thức tăng vốn khi phát hành cổ phần mới nhưng không có chi phí phát hành. Các cổ đông nắm giữ cổ phần thường chấp nhận việc giữ lại lợi nhuận của doanh nghiệp chỉ khi họ mong đợi khoản lợi nhuận giữ lại này sẽ tạo ra một tỷ suất lợi nhuận ngang bằng với tỷ suất sinh lợi cần thiết trên khoản vốn tái đầu tư này.
Chi phí sử dụng vốn lợi nhuận giữ lại = RE
e. Xác định chi phí sử dụng vốn từ phát hành cổ phần thường mới (RNE)
Chi phí này được xác định bằng cách tính toán chi phí sử dụng vốn cổ phần thường sau khi đã xem xét đến cả yếu tố định giá thấp hơn lẫn chi phí phát hành mới. Thông thường để bán một cổ phần thướng mới thì doanh nghiệp sẽ bán với giá thấp hơn giá thị trường hiện tại, chi phí phát hành cổ phần mới sẽ làm giảm số tiền thu được khi phát hành cổ phần mới. Ta sử dụng mô hình tăng trưởng đều để tính chi phí sử dụng vốn từ phát hành cổ phần thường mới:
D
Trong đó:
RNE =
Po +G
D: Cổ tức dự kiến vào cuối năm 1
Po: doanh thu phát hành thuần
G = Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại x ROE
Vì doanh thu phát hành thuần Po luôn nhỏ hơn giá thị trường hiện tại P nên chi phí sử dụng vốn cổ phần thường phát hành mới RNE bao giờ cũng lớn hơn chi phí sử dụng vốn cổ phần hiện tại và lớn hơn chi phí sử dụng bất kỳ một nguồn tài trợ dài hạn nào khác.
Tóm lại, trong một doanh nghiệp hay một dự án để đánh giá được hiệu quả tài chính ta cần phải có những thước đo chính xác. Để thẩm định dược tính khả thi, hiệu quả tài chính cũng như rủi ro của dự án dựa vào các chỉ tiêu tài chính như NPV, PI, IRR… để phân tích, trước hết phải có tỷ lệ chiết khấu tài chính hợp lý mà một tỷ lệ chiết khấu tài chính hợp lý này không được sử dụng chung cho tất cả các dự án mà phải dựa vào cấu trúc vốn hay nói rõ hơn là tỷ trọng của các nguồn tài trợ và chí phí phải trả cho các nguồn tài trợ này.
3.2.5. Hoàn thiện một số nội dung thẩm định dự án theo quy trình đang áp
dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
Quy trình thẩm định dự án đầu tư của VCB đã được xây dựng cụ thể nhưng còn nhiều điểm bất cập cần sửa đổi và bổ sung cho hoàn thiện thích ứng với tình hình cụ thể của mỗi thời kỳ:
Thứ nhất, hoàn thiện nội dung thẩm định cấu trúc vốn của DAĐT
VCB cần có những quy định cụ thể hơn khi thẩm định các nội dung trong tổng vốn đầu tư của dự án. Cụ thể, cần xác định rõ và phân tích cấu trúc của tổng vốn đầu tư của dự án theo những nội dung sau:
- Vốn đầu tư vào TSCĐ và vốn đầu tư vào TSLĐ ròng.
- Vốn đầu tư vào TSCĐ nhằm mua sắm, cải tạo, mở rộng TSCĐ như nhà
cửa, trang thiết bị, máy móc…
- Vốn đầu tư vào TSLĐ ròng nhằm hình thành các TSLĐ cần thiết để thực
hiện dự án.
Việc phân loại vốn đầu tư giúp các nhà thẩm định xây dựng được một kết cấu vốn đầu tư và tài sản thích hợp, tạo điều kiện cho công tác thẩm định được tiến hành một cách thuận lợi và nhanh chóng hơn. Việc xác định rõ các nội dung trong tổng vốn đầu tư là cơ sở để tính khấu hao, dòng tiền ròng và các chỉ tiêu tài chính quan trọng của dự án như NPV, IRR, PP, PI. Cần thẩm định và ưu tiên cho từng dự án cụ thể thích ứng điều kiện vay vốn của khách hàng.
Thứ hai,hoàn thiện nội dung thẩm định doanh thu, chi phí dự kiến của DAĐT
Trong một dự án đầu tư thì Chi phí của dự án gồm chi phí đầu tư ban đầu;
chi phí sản xuất; chi phí thay thế thiết bị; chi phí kết thúc dự án. Các cán bộ
thẩm định ở dự án đầu tư trung dài hạn cũng như ngắn hạn cần phải nắm rõ và phân tích một cách cụ thể các khoản mục chi phí đầu tư trên để thẩm định từng khoản mục chi phí và tỷ trọng giữa các khoản mục mà chủ đầu tư đưa ra có hợp lý không. Đặc biệt các chi phí như khấu hao tài sản cố định, chi phí maketing ngân hàng… Thường xuyên được điều chỉnh theo quy định của Ngân hàng nên trong khi thẩm định cần phải chú trọng tới các chi phí này để kiểm tra, đối chiếu và có sự điều chỉnh kịp thời và mang lại hiệu quả cho việc thực hiện dự án.
Một dự án bao giờ cũng dự kiến được doanh thu của nó, trong nền kinh tế thị trường thì yếu tố về thị trường đầu vào và đầu ra của sản phẩm dự án quyết định đến giá bán và do đó quyết định đến doanh thu dự kiến của dự án. Chính vì vậy khi tiến hành thẩm định, phải quan tâm đến những yếu tố thường xuyên biến động như tỷ giá, lạm phát và giá cả của các mặt hàng thay thế cũng như những biến động bất thường của nền kinh tế.
Thứ ba, Hoàn thiện phương pháp xác định dòng thiền thuần của DAĐT
Một dự án bất kỳ bao gồm nhiều nguồn tài trợ khác nhau: Tài trợ cho dự án bằng vốn tự có; Tài trợ cho dự án bằng nợ. Mỗi nguồn vốn có những ưu điểm, nhược điểm khác nhau và tương ứng mỗi nguồn vốn sẽ có cách tính dòng tiền ròng (NCF) khác nhau, do đó giá trị của chỉ tiêu NPV sẽ khác. Công thức để tính dòng tiền ròng của dự án qua các năm mà VCB vẫn đang áp dụng là phù hợp. Vì vậy, Ngân hàng cần tiếp tục áp dụng cách tính đó:
- Nếu việc thanh toán được thực hiện theo niên kim cố định hàng năm: NCF = LNST + KH – Trả gốc
- Trả lãi hàng năm, trả gốc vào năm cuối của dự án.
NCF = LNST + KH
NPV = Tổng NCF được hiện tại hoá - Vốn đầu tư hiện tại hoá tại thời điểm to Tuy nhiên, qua trao đổi với một số cán bộ thẩm định của VCB, vẫn còn
một số cán bộ chưa thực hiện đúng cách xác định dòng tiền thuần để tính NPV, cụ thể: chưa loại chi phí lãi vay khỏi công thức xác định dòng tiền thuần. Điều này cần được sửa đổi và thống nhất trên toàn hệ thống VCB
Ngoài ra, Ngân hàng cần phải nắm được cơ cấu và tỷ lệ của từng nguồn vốn tham gia trong từng giai đoạn thực hiện dự án để xem dự án có đảm bảo đúng tiến độ thi công và có khả thi hay không, tạo cơ sở cho việc xác định dòng tiền thuần.
Thứ tư, hoàn thiện thẩm định khả năng trả nợ của dự án
Khả năng trả nợ của dự án phụ thuộc vào tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của dự án. Nguồn trả nợ của dự án gồm: Lợi nhuận ròng; khấu hao cơ bản và các nguồn trả nợ khác. Đối với nguồn trả nợ là lợi nhuận ròng, Ngân hàng yêu cầu chủ đầu tư phải ưu tiên dùng lợi nhuận để trả nợ trước khi trích quỹ và chia lợi nhuận trong trường hợp nguồn trả thiếu để đảm bảo an toàn nguồn vốn cho vay của Ngân hàng. Đối với nguồn trả nợ là khấu hao tài sản cố định, Ngân hàng cần phải thẩm định, kiểm tra một cách chặt chẽ xem chủ đầu tư có trích lập khấu hao tài sản cố định theo đúng quy định, quy chế của nhà nước hay không, tránh trường hợp khách hàng cố tình kéo dài thời gian khấu hao tài sản cố định để kéo dài thời gian trả nợ. Đối với nguồn trả nợ khác, Ngân hàng yêu cầu chủ đầu tư phải kê khai một cách cụ thể các nguồn trả nợ bổ sung này. Đồng thời Ngân hàng phải theo dõi một cách chặt chẽ số tiền trả nợ từng năm của dự án để có thể kiểm soát được số tiền khách hàng đã thanh toán và số tiền còn phải thực hiện nghĩa vụ, từ đó đưa ra sự điều chỉnh kịp thời và phương pháp thu nợ hợp lý để đảm bảo an toàn vốn đầu tư.
Thứ năm, hoàn thiện thẩm định rủi ro của dự án
Để thẩm định mức độ rủi ro của dự án Ngân hàng thường sử dụng phương pháp chính là phương pháp tính độ nhạy. Khi sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy thì phải xác định một cách chính xác các nhân tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến kết quả hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án đặc biệt là nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu và nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất. Chẳng hạn với nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu như giá bán, Ngân hàng nên xem xét nếu giá bán giảm 3%, 5%... hoặc khi tổng vốn đầu tư vào dự án tăng 6%, 11%... thì các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án sẽ thay đổi như thế nào và từ đó đưa ra kết luận đầu tư cho hợp lý.
Rủi ro xảy ra sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện dự án và ảnh hưởng đến khả năng thanh toán nợ của chủ đầu tư. Do đó khi tiến hành thẩm định các yếu tố thuộc về rủi ro dự án thì các cán bộ thẩm định cần phải hết sức thận trọng, phải tiến hành thẩm định thật kỹ càng và đưa ra các biện pháp giảm thiểu kịp thời tránh tình trạng khi thực hiện dự án có thể xảy ra không như mong đợi.
- Đối với loại rủi ro về cơ chế chính sách: Khi thẩm định dự án,cán bộ thẩm định phải xem xét mức độ tuân thủ về mặt pháp lý của dự án để đảm bảo chấp hành nghiêm ngặt các quy luật và quy định hiện hành có liên quan đến dự án.
- Đối với loại rủi ro xây dựng, hoàn tất: Loại rủi ro này nằm ngoài khả năng điều chỉnh, kiểm soát, tuy nhiên khi tiến hành thẩm định, cán bộ thẩm định nên yêu cầu chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu đầu tư xây dựng uy tín, có sức mạnh tài chính và kinh nghiệm. Bên cạnh đó, cũng phải yêu cầu chủ đầu tư thực hiện việc giám sát chặt chẽ tiến độ thi công trong quá trình xây dựng.
- Đối với loại rủi ro thị trường, thu thập, thanh toán: Khi tiến hành thẩm định, cán bộ thẩm định nên phân tích, đánh giá thị trường, thị phần cẩn thận và dự kiến cung cầu thận trọng, không nên có những dự báo quá lạc quan.
- Đối với loại rủi ro về cung cấp: Trong quá trình xem xét dự án, cán bộ thẩm định phải nghiên cứu, đánh giá cẩn trọng các báo cáo về chất lượng, trữ lượng nguyên vật liệu đầu vào trong hồ sơ dự án. Đưa ra những nhận định ngay từ ban đầu trong tính toán, xác định hiệu quả tài chính của dự án.
- Đối với loại rủi ro về kỹ thuật, vận hành, bảo trì: Cán bộ thẩm định có thể yêu cầu chủ đầu tư giảm thiểu rủi ro loại này bằng cách sử dụng các công nghệ đã được kiểm chứng.
- Đối với loại rủi ro về môi trường xã hội: Cán bộ thẩm định nên đánh giá tác động môi trường một cách khách quan và toàn diện trên cơ sở sự tuân thủ các quy định về môi trường.
3.2.6. Hoàn thiện công tác tổ chức điều hành
Ngân hàng cần nhanh chóng bổ sung và sửa đổi một số nội dung để hoàn thiện quy trình thẩm định dự án đầu tư nhằm áp dụng một cách khoa học, thống nhất, toàn diện trong toàn bộ hệ thống.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức điều hành theo chiều dọc từ trên xuống, từ Hội sở đến các chi nhánh sao cho phù hợp, tạo điều kiện để các bộ phận phát huy hết vai trò và trách nhiệm của mình. Chú trọng và đầu tư thích đáng vào công tác thẩm định dự án đầu tư tại các chi nhánh. Những dự án lớn thường được chuyển về hội sở chính để thẩm định nên việc kiểm tra coi kết quả thẩm định dự án tại các chi nhánh là căn cứ cơ bản để Phòng quản lý tín dụng tiến hành thẩm định lại, nhưng vẫn phải không ngừng phân tích, xử lý các thông tin thu thập từ bên ngoài để kết quả tái thẩm định được chính xác hơn. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong từng chi nhánh, giữa các chi nhánh với các phòng ban trên Hội sở sẽ tạo ra một cơ cấu tổ chức điều hành thống nhất, chặt chẽ. Đồng thời, cán bộ thẩm định ở Ngân hàng phải thiết lập và củng cố mối quan hệ với các bộ phận thẩm định ở các ngân hàng khác để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư.
Ngân hàng nên phân chia cán bộ tín dụng ra thành từng nhóm, mỗi nhóm phụ trách một loại dự án nhất định như các dự án sản xuất, các dự án thương mại, các dự án xây dựng… Việc phân công như vậy sẽ chuyên môn hoá được cán bộ tín dụng trong từng lĩnh vực, giúp họ am hiểu hơn về nghiệp vụ, đảm bảo kết quả thẩm định dự án đầu tư sẽ hiệu quả hơn.
Ngân hàng cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện và thời gian hoàn thành thẩm định dự án đầu tư của các cán bộ để nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng.
3.2.7. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ thẩm định dự án
-Tăng cường kiểm tra, kiểm soát sau cho vay
Do hoạt động tài trợ cho các dự án là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Một phần chất lượng của dự án có đạt hiệu quả hay không là phụ thuộc vào trình độ quản lý và việc sử dụng đồng vốn của các chủ đầu tư. Do đó sau khi cho vay, các cán bộ thẩm định vẫn phải thường xuyên tiến hành kiểm tra, kiểm soát và xuống tận cơ sở để theo dõi xem các chủ đầu tư có sử dụng vốn của Ngân hàng vào đúng mục đích hay không và tiến độ thi công của dự án như thế nào. Để từ đó có giải pháp cụ thể cho dự án đầu tư này.
-Lập quỹ hỗ trợ thẩm định
Công tác thẩm định dự án đầu tư phải cần rất nhiều chi phí. Không chỉ tiến hành thẩm định trước khi cho vay mà sau khi cho vay, các cán bộ thẩm định vẫn phải thường xuyên đi thực tế để kiểm tra. Chi phí cho mỗi đợt đi thực tế như vậy không phải là nhỏ. Do đó Ngân hàng nên lập ra một quỹ riêng để hỗ trọ cho công tác thẩm định. Quỹ này một mặt là nguồn khuyến khích vật chất làm tăng tinh thần trách nhiệm của các cán bộ thẩm định với công việc, mặt khác góp phần giảm bớt khó khăn cho các cán bộ khi tiến hành thẩm định. Quỹ hỗ trợ này trước mắt có thể làm tăng chi phí cho Ngân hàng nhưng về lâu dài nó sẽ tạo ra sự ổn định thúc đẩy công tác tín dụng của Ngân hàng được thực hiện tốt hơn.
-Thực hiện tốt chiến lược khách hàng, tích cực tìm kiếm khai thác khách hàng
Chiến lược khách hàng tức là làm marketing ngân hàng, đây là hình thức quan trọng trong giai đoạn hiện nay đối với các ngân hàng. Qua đó có thể giữ được khách hàng truyền thống và thu hút khách hàng lớn làm ăn có hiệu quả. Nếu thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng thì ngân hàng có nhiều cơ hội đầu tư hơn, hoạt động tín dụng càng được mở rộng. Vì vậy, các ngân hàng cần đẩy mạnh công tác khách hàng, tổ chức hội nghị khách hàng. Các ngân hàng hướng dẫn khách hàng giải quyết thủ tục vay vốn một cách nhanh gọn, nhưng bảo đảm tốt quy trình thẩm định. Tăng cường quan hệ với các Tổng công ty để tạo điều kiện cho quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các thành viên của Tổng công ty. Chủ động bố trí nguồn vốn lớn bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ để đầu tư cho ngành, các Tổng công ty, các dự án có vị trí chiến lược đối với nền kinh tế như: Bưu chính viễn thông, điện lực, than, dầu khí...
Nghiên cứu xây dựng mục tiêu, kế hoạch đầu tư trung, dài hạn theo chiến lược khách hàng. Tăng cường công tác tiếp thị, tìm kiếm các tổ chức kinh tế và cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn đi đôi với tư vấn đầu tư để chủ động cho quan hệ tín dụng và khai thác khách hàng đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn trung, dài hạn. Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng bằng một chính sách lãi suất, phí dịch vụ thấp, có khả năng cạnh tranh được với các ngân hàng khác, luôn coi lợi ích của khách hàng chính là lợi ích của bản thân ngân hàng. Thực
hiện chính sách ưu đãi lãi suất phí dịch vụ cho những khách hàng thực hiện giao dịch trọn gói với ngân hàng bao gồm từ khâu vay vốn kinh doanh ngoại tệ đến khâu thanh toán xuất nhập khẩu và chuyển tiền. Ngân hàng phải chủ động đặt quan hệ với khách hàng làm ăn có hiệu quả chứ không phải bị động ngồi chờ khách hàng đến gõ cửa xin vay, nếu không sẽ bỏ phí những cơ hội đầu tư lớn đem lại lợi nhuận cao cho kinh doanh ngân hàng.
3.2.8. Một số giải pháp khác
Thứ nhất, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định dự án
Trong hoạt động thẩm định dự án nói chung và thẩm định dự án đầu tư nói riêng, con người luôn là trung tâm, quyết định chất lượng thẩm định. Thẩm định dự án là một nghiệp vụ rất phức tạp, đa dạng có liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế - xã hội. Ngoài ra, nó ảnh hưởng rất lớn đến nguồn vốn và khả năng sinh lời của ngân hàng có thể làm cho ngân hàng đi đến bờ vực phá sản vì các dự án luôn đòi hỏi số vốn lớn, thời gian kéo dài và luôn chứa đựng rủi ro cao. Chất lượng thẩm định dự án muốn đạt yêu cầu, đem lại hiệu quả thì nhân viên, cán bộ thẩm định ngoài yêu cầu về chuyên môn nghề nghiệp còn phải có tinh thần trách nhiệm cao trong mọi hoạt động và phải có đạo đức tốt. Vì vậy, trình độ của cán bộ tín dụng phải đáp ứng được những yêu cầu đặt ra: phải có năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn, đạo đức nghề nghiệp và bản lĩnh vững vàng.
Về năng lực chuyên môn, các cán bộ thẩm định phải có trình độ từ đại học trở lên. Phải có kiến thức cơ bản về hoạt động tài chính, kinh tế thị trường và pháp luật. Ngoài ra cần phải thông thạo ngoại ngữ và công nghệ thông tin liên quan đến lĩnh vực thẩm định, biết phân tích đánh giá các dự án đầu tư và các vấn đề liên quan một cách thuần thục, sáng tạo, khoa học và có khả năng tìm ra nhiều phương pháp mới.
Về kinh nghiệm thực tiễn, cán bộ thẩm định là người trực tiếp tham gia giám sát, theo dõi và quản lý dự án, biết đúc kết kinh nghiệm từ các lĩnh vực khác để phục vụ cho chuyên môn của mình.
Về đạo đức nghề nghiệp, cán bộ thẩm định cần phải trung thực, kỷ luật cao,
tinh thần trong công việc, có lòng say mê và tâm huyết với nghề nghiệp.
Do đó, yêu cầu đặt ra đối với Ngân hàng là cần tiến hành xây dựng đội ngũ cán bộ thẩm định. Ngân hàng thường xuyên tổ chức đào tạo và đào tạo lại, tập huấn cho các cán bộ thẩm định. Ngân hàng tạo điều kiện cho các cán bộ thẩm định tự nâng cao trình độ kiến thức và năng lực kinh nghiệm của bản thân trong quá trình làm việc. Cần đặt ra những yêu cầu chuyên môn bắt buộc, đòi hỏi đội ngũ này phải có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, tài chính ngân hàng, có khả năng phân tích thị trường tốt… Kiên quyết điều chuyển những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc của tổ chức. Đồng thời cũng cần thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo cho cán bộ thẩm định có thêm những kiến thức chuyên ngành về các lĩnh vực khác, đảm bảo cho công tác thẩm định đạt hiệu quả cao. Nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng thu hút thêm khách hàng.
Đối với những quy chế nghiệp vụ mới ban hành, thì ngân hàng cần tổ chức tập huấn cho tất cả các cán bộ thẩm định về những quy chế mới đó. Để họ có đầy đủ những hiểu biết về quy định mới, tránh áp dụng sai quy chế, gây tổn thất thiệt hại cho ngân hàng.
Ngân hàng nên dựa vào năng lực và chuyên môn của cán bộ thẩm định để có sự phân công công việc hợp lý. Ngân hàng có chính sách ưu đãi, khen thưởng thỏa đáng đối với cán bộ thẩm định giỏi, làm việc có trách nhiệm, hiệu quả công việc cao, đồng thời kỷ luật những hành vi tiêu cực đảm bảo cho công tác thẩm định tại ngân hàng ngày càng chuyên nghiệp hơn và có kết quả tốt hơn, từ đó có thể hạn chế nợ xấu, nợ quá hạn. Đối với những cán bộ trẻ ít kinh nghiệm phải được các cán bộ đã công tác lâu năm hướng dẫn kèm cặp. Vì vậy phải có sự phân công công việc hợp lý nhằm nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng.
Nhằm mục đích nâng cao trình độ và kiến thức nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ thẩm định, Ngân hàng nên thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ. Cán bộ thẩm định cần phải nắm bắt một cách kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Về pháp luật, về các hoạt động kinh tế xã hội, về chế độ và thể lệ nghiệp vụ tín dụng… Các lớp đào tạo bồi dưỡng có thể do các cán bộ có trình độ cao, nghiệp vụ sâu và có kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy
hoặc cũng có thể mời các giảng viên các trường đại học, các chuyên gia ở bên ngoài đến giảng dạy. Ngân hàng nên khuyến khích các cán bộ tín dụng phải thường xuyên đọc, nghiên cứu, tìm hiểu các văn bản, các quyết định của Nhà nước và các quy định, hướng dẫn của Ngân hàng.
Ngân hàng nên khuyến khích cán bộ tín dụng tự học tập, đào tạo, nâng cao trình độ và năng lực bản thân. Tức là tạo mọi điều kiện về thời gian và kinh phí để họ có thể tiếp tục theo học các khoá học sau đại học lấy bằng thạc sĩ, tiến sĩ… Ngân hàng cũng có thể hỗ trợ kinh phí để các cán bộ tín dụng bổ sung thêm kiến thức về tin học, ngoại ngữ, giúp họ làm chủ các phương tiện hiện đại, công nghệ tiên tiến. Ngoài ra Ngân hàng nên sớm xây dựng một đội ngũ cán bộ chủ chốt, có năng lực, có kinh nghiệm theo học các lớp đào tạo về chuyên ngành thẩm định dự án để làm trụ cột cho hoạt động thẩm định dự án đầu tư.
Ngân hàng phải thường xuyên tiến hành kiểm tra, theo dõi, đánh giá trình độ cán bộ tín dụng để có kế hoạch bồi dưỡng cho các cán bộ chưa nắm vững về nghiệp vụ hoặc có thể chuyển họ sang công tác ở các vị trí thích hợp hơn. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng phải theo dõi, cân nhắc, lựa chọn và đề bạt những cán bộ có năng lực, có mục tiêu phấn đấu, có ý thức trách nhiệm cao trong công việc lên những vị trí cao hơn.
Ngân hàng cần có một chính sách đãi ngộ thoả đáng và công bằng. Với những cán bộ đạt thành tích cao trong công việc, Ngân hàng nên có sự khen thưởng kịp thời để khuyến khích, động viên họ hoàn thành tốt hơn nữa công việc được giao. Đồng thời với những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc, Ngân hàng phải xử lý nghiêm minh, có như vậy chất lượng công tác thẩm định nói chung và chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư nói riêng của Ngân hàng mới được đảm bảo và ngày càng hoàn thiện đạt hiệu quả tốt.
Thứ hai, Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào quá trình thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án là một công việc khá phức tạp, khối lượng công việc lớn đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của cán bộ thẩm định. Việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong công tác thẩm định là rất cần thiết, có thể giúp cho