Thứ ba, nguồn thông tin phục vụ công tác thẩm định.
Đây cũng là nội dung được đối tượng khảo sát đánh giá khá thấp. Thông tin là thứ không thể thiếu khi thẩm định một dự án, nhưng nguồn thông tin mà Ngân hàng có được chủ yếu từ khách hàng, các phương tiện thông tin đại chúng nên nguồn thông tin mà Ngân hàng có còn hạn chế chưa phát huy hết hiệu quả để thẩm định dự án. Nguồn thông tin từ đài báo, internet thường thiếu tính nhất quán, nhiều lúc có những thông tin trái chiều nhau điều này khiến cho cán bộ thẩm định khó khăn trong việc thẩm định. Một số doanh nghiệp làm ăn theo lối tạm bợ chưa có định hướng kế hoạch lâu dài, không coi trọng uy tín của chính họ sẵn sàng làm mọi chuyện để rút vốn của Ngân hàng.
Để đánh giá doanh nghiệp, cán bộ thẩm định phải dựa vào các tài liệu như báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán…Nhưng không phải tất cả các tài liệu trên đều được kiểm tra, kiểm toán đầy đủ, nên tính chân thực của số liệu, đặc biệt là của doanh nghiệp tư nhân, ngoài quốc doanh rất đáng nghi ngờ. Để phát hiện điều này không phải cán bộ thẩm định nào cũng có thể làm được vì vậy nó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của công tác thẩm định. Bằng những thủ đoạn như lập dự án giả để lấy tiền sử dụng sai mục đích, đưa ra mức doanh thu quá cao để làm tăng tính khả thi của dự án…Mặc dù cán bộ thẩm định thường xuyên cập nhật và xử lý thông tin khách hàng không chỉ từ hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp mà còn từ các tờ báo và phương tiện thông tin khác. Nhưng để lấy được thông tin nhanh chóng về khách hàng khi cần thiết đòi hỏi Ngân hàng phải xây dựng được một hệ thống thông tin riêng, xây dựng được một hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, đa dạng trên nhiều mặt phục vụ cho công tác thẩm định.
Một số doanh nghiệp một mặt thiếu năng lực mặt khác lại cố tình không trung thực trong việc lập hồ sơ xin vay vốn, hồ sơ dự án dẫn đến việc cung cấp những thông in không chính xác, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng công tác thẩm định và ra quyết định cho vay của ngân hàng.
Thứ tư, công tác tái thẩm định dự án sau khi Ngân hàng tiến hành giải ngân vốn cho doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.
Một số dự án không phát huy được hiệu quả theo kỳ vọng nhưng chưa được ngân hàng đánh giá và nhìn nhận một cách khách quan, độc lập, do vậy chưa đánh giá đúng mức hiệu quả của vốn đầu tư. Việc đầu tư có hiệu quả hay không sẽ quyết định đến khả năng hoàn trả vốn vay vủa doanh nghiệp đối với ngân hàng, chi nhánh cần xem xét về vấn đề này để có thể rút ra được những kinh nghiệm trong công tác cho vay vốn để đầu tư.
Có thể bạn quan tâm!
- Giới Thiệu Thông Tin Về Dự Án Đầu Tư Dây Chuyền Kéo Sợi
- Biến Động Của Npv, Irr Và Thời Gian Trả Nợ Khi Thay Đổi Tổng Mức Đầu Tư
- Đánh Giá Của Cán Bộ Thẩm Định Tín Dụng Về “Cơ Sở Vật Chất Phục Vụ
- Kiến Nghị Đối Với Ngân Hàng Tmcp Ngoại Thương Việt Nam
- Chi Tiết Tổng Mức Đầu Tư Của Dự Án
- Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Huế - 15
Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.
2.7.3. Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế
Trong ngân hàng có một số dự án việc tiến hành thẩm định dự án đầu tư vay vốn còn mang tinh chất hình thức mà không mang tính quyết định khả thi của dự án. Nhiều dự án trong thực tế giá trị tài sản bảo đảm lại được đặt lên trên tính khả thi và hiệu quả tài chính của dự án.
Quan hệ giữa nhân viên thẩm định và khách hàng dễ dẫn đến nhiều vấn đề liên quan đến rủi ro đạo đức. Điều này xảy ra khi nhân viên thẩm định có tình sử dụng một vài thủ thuật để làm đẹp hồ sơ thẩm định của khách hàng nhằm giúp khách hàng vay vốn. Rủi ro đối với ngân hàng sẽ tăng lên, đặc biệt là đối với những hồ sơ thẩm định không được tái thẩm định bởi những cấp cao hơn.
Hệ thống pháp luật của nước ta chưa đồng bộ, còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Hiện nay chưa có chế độ kiểm toán bắt buộc, các số liệu về thu nhập, khả năng tiêu thụ, chi phí hoạt động…của doanh nghiệp chỉ mang tính ước lượng mà chưa có sự kiểm soát của bất kì tổ chức nào. Do đó chuyên viên thẩm định trong quá trình thẩm định rất khó xác định tình hình tài chính, tình tình thanh toán, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thêm vào đó là các chiến lược, chủ trương, định hướng phát triển kinh tế của ngành, của địa phương chưa cụ thể, thường mang tính tổng quát chung hoặc chủ trương của các ngành hữu quan chưa thống nhất dẫn đến khó khăn cho công tác thẩm định.
Cạnh tranh khốc liệt của toàn cầu hóa khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam phá sản không có khả năng trả nợ ngân hàng. Một số khác tiếp tục cần vốn để vượt qua giai đoạn khó khăn, tuy nhiên các chỉ tiêu tài chính đều khó có thể đáp ứng quy định của ngân hàng hoặc nếu có đáp ứng thì nguồn thông tin cũng sai
lệch, không chính xác. Do vậy việc thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng rất khó khăn, đối tượng khách hàng giảm, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Môi trường xã hội thì hệ thống các cơ quan tư vấn về thẩm định dự án chưa nhiều, nhất là trong các khía cạnh thẩm định kĩ thuật, thị trường điều này đã gây trở ngại lớn đối với cán bộ thẩm định dự án tại Ngân hàng. Hiện nay, quan hệ giữa các ngân hàng ở Việt Nam chưa chặt chẽ, mật thiết. Giữa các ngân hàng chưa có sự phối hợp hỗ trợ lẫn nhau trong công tác thẩm định dự án, các ngân hàng còn chưa chia sẻ thông tin tín dụng cho nhau. Có nhiều ngân hàng còn coi việc giữ bí mật thông tin tín dụng với ngân hàng bạn là một trong những biện pháp cạnh tranh. Quan điểm trên là hoàn toàn sai lầm, vì việc cạnh tranh giữa các ngân hàng phải dựa trên chất lượng dịch vụ của ngân hàng đó cung cấp.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH HUẾ
3.1. Định hướng của ngân hàng Vietcombank – CN Huế trong công tác thẩm định dự án đầu tư
Trong thời gian tới, công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại ngân hàng Vietcombank – CN Huế được định hướng như sau:
Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của Vietcombank – CN Huế phải đứng trên giác độ của người cho vay, người bỏ vốn để xem xét.
Công tác thẩm định dự án phải xuất phát từ tình hình thực tiễn trong ngành và nhằm phục vụ hoạt động cho vay của Vietcombank – CN Huế trong từng giai đoạn.
Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được phổ cập hoá trong toàn hệ thống với tất cả các cán bộ làm nhiệm vụ ở các bộ phận khác nhau, với những yêu cầu đòi hỏi khác nhau.
Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, toàn diện, đối với tất cả các dự án xin vay, trong quá trình cho vay từ xem xét dự án cho đến giải ngân, thu nợ, thu lãi.
Công tác thẩm định dự án tại Vietcombank – CN Huế phải được tiến hành theo một quy trình khoa học, hiện đại sát với tình hình thực tế và phù hợp với nghiệp vụ ngân hàng.
Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được xây dựng theo hướng đặc thù của hoạt động cho vay tại ngân hàng, duy trì phát triển thành một thế mạnh trong kinh doanh trên thương trường.
Công tác thẩm định phải phát huy vai trò tham mưu cho lãnh đạo để có những biện pháp tổ chức, chỉ đạo diều hành cụ thể trong việc quyết định các khoản vay.
Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư đòi hỏi tính chủ động, năng lực sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp và phải thường xuyên được tổng kết, rút ra kinh nghiệm, bài học để hoàn thiện và phát triển
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng Vietcombank – CN Huế
Vai trò của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư ngày càng trở nên quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng khoản vay của ngân hàng. Từ thực trạng hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Vietcombank – CN Huế, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng.
3.2.1. Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định dự án đầu tư
Trong thời gian tới ngân hàng cần có phòng thẩm định riêng, có nhiệm vụ chuyên trách thẩm định các dự án trung và dài hạn, có sự độc lập với phòng tín dụng, phòng khách hàng và quản lý nợ vay. Việc tổ chức bố trí như vậy sẽ giúp cho mỗi cán bộ thẩm định giảm bớt khối lượng công việc, tạo điều kiện cho họ chuyên tâm hơn vào công việc, đồng thời có thời gian để trau dồi thêm nghiệp vụ cho bản thân. Ngân hàng cũng lưu ý tuyển chọn thêm các cán bộ có kinh nghiệm về thẩm định kinh tế-kỹ thuật dự án. Trong trường hợp cần thiết ngân hàng có thể thuê chuyên gia có trình độ và uy tín cao ở nhiều lĩnh vực tham gia vào phòng thẩm định để đạt hiệu quả cao nhất và giảm được bớt rủi ro. Như vậy, ngân hàng sẽ thu được kết quả thẩm định tốt hơn và tiết kiệm được thời gian thẩm định.
Mặt khác, Vietcombank – CN Huế nên quy định chi tiết hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của cá nhân các cán bộ thẩm định. Đồng thời cần thường xuyên rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, bổ sung cán bộ còn thiếu cho các chi nhánh, thuyên chuyển các cán bộ không đủ khả năng đi làm việc khác. Chi nhánh nên tạo lập một cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn trong quá trình thẩm định giữa các bộ phận trong ngân hàng nhằm nâng hiệu quả công việc.
Vietcombank – CN Huế cần tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra để đảm bảo công tác thẩm định tài chính dự án được thực hiện theo đúng quy trình, các chuẩn mực đã được đề ra. Công việc thanh tra, kiểm tra này cần phải được thực hiện đối với cả những dự án nhỏ, bởi đây là những dự án thường bị xem nhẹ trong công tác kiểm tra, dẫn đến những hệ lụy không mong muốn.
Vietcombank – CN Huế tiến hành theo dõi kỹ càng tiến trình thu nợ, đặc biệt quan tâm những trường hợp là các dự án tốt nhưng kết quả lại không trả được lãi và vốn đúng hạn, tìm ra nguyên nhân để có thể khắc phục kịp thời.
Phòng thẩm định cần phối hợp chặt chẽ với phòng khách hàng, phòng tài sản, phòng thu hồi nợ, …để thu thập được các thông tin chính xác về khách hàng, về dự án vay vốn.
3.2.2. Hoàn thiện phương pháp thẩm định dự án đầu tư
Phương pháp thẩm định dự án là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng thẩm định dự án. Do vậy phương pháp được lựa chọn phải phù hợp với khả năng, điều kiện của Ngân hàng và được cán bộ thẩm định sử dụng một cách linh hoạt, hiệu quả. Các tiêu chuẩn đưa ra phải phù hợp với quy mô, tính chất của dự án, cần phải có sự so sánh đối chiếu với các chỉ tiêu khác hoặc đối chiếu với các dự án đã đi vào hoạt động. Tuy nhiên việc so sánh đối chiếu hay tính toán các chỉ tiêu này chỉ để tham khảo xem xét, không nên quá cứng nhắc vì có thể do đặc thù của từng ngành lĩnh vực mà chỉ tiêu này có thể đúng hoặc sai.
Mỗi phương pháp thẩm định đều có mỗi ưu và nhược điểm riêng, điều quan trọng là cán bộ thẩm định phải hiểu rõ từng ưu và nhược điểm của chỉ tiêu để có thể vận dụng chúng một cách có hiệu quả. Như phương pháp phân tích rủi ro thường chỉ sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy, tức là mới chỉ dừng lại ở phân tích biến động của từng yếu tố đến các chỉ tiêu hiệu quả tài chính mà chưa sử dụng hiệu quả phương pháp phân tích tình huống, dự báo. Như vậy đánh giá mức rủi ro vẫn chưa đầy đủ và chính xác. Sử dụng kết hợp các phương pháp khác nhau trong cùng một nội dung thẩm định. Theo đó, ngân hàng Vietcombank
– CN Huế có thể xem xét, nghiên cứu và áp dụng phương pháp phân tích độ lệch chuẩn và các phương pháp mô phỏng tình huống để có thể đánh giá mức độ rủi ro của dự án một cách chính xác nhất.
Phương pháp thẩm định của Vietcombank – CN Huế cũng khá là hợp lý nhưng cần được tiêu chuẩn hóa để phù hợp với sự phát triển của của nền kinh tế. Ngoài các chỉ tiêu NPV, IRR đang được sự dụng, nên sử dụng thêm các chỉ tiêu
khác để có thể đánh giá tổng quát hơn. Một số chỉ tiêu ngân hàng có thể xem xét bổ sung như: chỉ tiêu lợi nhuận bình quân một năm và cả vòng đời của dự án, hệ số hoàn vốn nội bộ điều chỉnh MIRR. Từ đó sẽ giúp ngân hàng có được những kết quả chính xác hơn, đưa ra được những quyết định hợp lý nhất.
Là một ngân hàng chiếm thế mạnh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, với nền kinh tế hội nhập hiện nay, bên cạnh các dự án đầu tư trong nước, Vietcombank – CN Huế sẽ phải thẩm định dự án đầu tư nước ngoài vì vậy cần xây dựng phương pháp thẩm định sát với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
3.2.3. Hoàn thiện nội dung thẩm định dự án đầu tư
Đi kèm với phương pháp cũng cần hoàn thiện hơn nữa các nội dung thẩm định tài chính dự án để có thể có được những kết quả chính xác nhất. Nội dung thẩm định cần hoàn thiện ở một số mặt sau:
- Thẩm định tổng vốn đầu tư và nguồn tài trợ
Trong tính toán tổng vốn đầu tư của dự án, cán bộ thẩm định của ngân hàng thường chỉ để ý đến đơn giá do chủ đầu tư đưa ra mà ít có sự so sánh với giá thị trường. Do đó, nên xem xét kỹ các số liệu về giá cả thiết bị, đơn giá nguyên vật liệu tính cho tài sản lưu động ròng…có sát với giá thị trường không. Vietcombank – CN Huế nên xây dựng thành một khung giá với những dự án có tài sản cố định và tài sản lưu động tương đối giống nhau để rút ngắn được thời gian tính toán cho cán bộ thẩm định. Bên cạnh đó phải thường xuyên cập nhật thông tin thị trường để khung giá đặt ra luôn sát với thị trường. Các biến động về lạm phát hay tỷ giá hối đoái cũng cần được tính đến để ước lượng khoản dự phòng phù hợp. Vietcombank – CN Huế cũng cần có sự so sánh đối chiếu giữa những dự án thuộc cùng lĩnh vực, loại hình được thực hiện bởi các công ty khác để tăng tính khách quan trong tính vốn đầu tư.
Về phía nguồn tài trợ, ngân hàng cần xác định được các nguồn tài trợ và vị trí của từng nguồn tài trợ đối với dự án. Vietcombank – CN Huế cần phải thận trọng trong khi ra quyết định cho vay nếu xét trong trường hợp dự án không thành công mà ngân hàng chỉ được trả nợ sau khi các nguồn khác được thanh
toán. Vốn của chủ đầu tư đóng góp trong dự án cần đặc biệt quan tâm vì vốn tự có không chỉ là tấm đệm an toàn cho dự án mà còn có ảnh hưởng tới thái độ trách nhiệm của chủ đầu tư khi thực hiện dự án. Vốn của chủ đầu tư nên quy định phải trên một tỷ lệ nhất định trong tổng vốn đầu tư. Qua đó, Vietcombank – CN Huế có thể giảm thiểu rủi ro với khoản cho vay, tránh được những tổn thất.
Đối với các nguồn khác, ngân hàng phải xem xét tính khả thi và chắc chắn của từng nguồn, đảm bảo là trong quá trình thực hiện dự án không bị đình trệ vì thiếu vốn.
- Thẩm định dòng tiền của dự án
Một trong những yếu tố quyết định tới tính chính xác của NPV cũng như các chỉ tiêu tài chính khác là việc tính toán dòng tiền chênh lệch chính xác. Muốn vậy thì cần phải tính chính xác các yếu tố doanh thu chi phí từng năm của dự án cũng như thời điểm xuất hiện các dòng doanh thu, chi phí đó.
Chi nhánh cần phải xác định được rõ ràng mọi nguồn tạo ra doanh thu cho dự án khi tính toán doanh thu của dự án, bao gồm: doanh thu từ sản phẩm chính, doanh thu từ sản phẩm phụ… tránh tính toán một cách khái quát.
Bên cạnh đó, Vietcombank – CN Huế cần chú ý tới chi phí khấu hao và chi phí trả lãi khi tính chi phí của dự án. Cán bộ thẩm định cần xem xét phương pháp khấu hao được áp dụng có hợp lý và hợp pháp không; tổng mức khấu hao các năm có bằng nguyên giá hay không và tính tới cả các khấu hao của các thiết bị của doanh nghiệp vừa dùng phục vụ dự án vừa phục vụ cho các mục đích khác của doanh nghiệp. Chính sách khấu hao của doanh nghiệp có phù hợp với các quy định của luật pháp hay không. Chi nhánh cần xây dựng một danh mục những tài sản cố định và tỷ lệ khấu hao hợp lý tương ứng với mỗi tài sản đó tạo điều kiện cho các cán bộ đối chiếu khi tiến hành thẩm định. Đối với chi phí trả lãi cần xem xét thận trọng trong trường hợp dự án đi vay theo lãi suất biến đổi.
Một vấn đề nữa cần chú ý khi tính toán dòng tiền của dự án là phải tính tới chi phí cơ hội vì hiện nay chi phí này vẫn chưa được Chi nhánh đưa vào khi tính toán thẩm định dòng tiền.