Hoàn Thiện Hệ Thống Pháp Lý Về Đào Tạo, Bồi Dưỡng Công Chức Làm Công Tác Thi Đua Khen Thưởng

kỹ năng để nâng cao nhận thức, bản lĩnh, năng lực vận dụng tốt vào công việc nhằm hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao

+ Đơn vị sử dụng, quản lý CC cần tạo điều kiện, sắp xếp công việc để CC có thời gian tham gia đầy đủ các khóa ĐTBD. Cơ sở ĐTBD cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa kỷ luật của CC khi tham gia ĐTBD, thông báo với đơn vị sử dụng, quản lý CC khi CC vi phạm kỷ luật học tập.

+ Nên có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ CC khi tham gia ĐTBD. Những CC được cử tham gia ĐTBD đạt kết quả xuất sắc thì có hình thức khen thưởng, những người theo học không đầy đủ hoặc bỏ dở mà không có lý do chính đáng cần có biện pháp xử lý khiển trách, cảnh cáo đến buộc bồi hoàn kinh phí ĐTBD. Có như vậy mới đề cao được ý thức trách nhiệm của học viên. Thực hiện nghiêm chỉnh việc bồi hoàn chi phí ĐTBD theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, để khắc phục tình trạng “chảy máu chất xám” ở các cơ quan, đơn vị làm công tác TĐKT. Nhiều CC có năng lực không muốn làm việc trong lĩnh vực TĐKT, muốn chuyển đến các đơn vị khác. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ, trọng dụng nhân tài để CC có năng lực an tâm công tác, tích cực tham gia ĐTBD.

Theo quy định hiện hành cho phép thủ trưởng các đơn vị hành chính, sự nghiệp được phép nâng bậc lương thường xuyên cho CC trước thời hạn nếu CC đạt thành tích xuất sắc trong công tác. Các cơ quan quản lý, sử dụng CC cần vận dụng quy định này, cụ thể là những CC tốt nghiệp thạc sĩ hoặc văn bằng hai có kết quả học tập xuất sắc sẽ được xét nâng bậc lương trước thời hạn 9 tháng hoặc 01 năm. Việc này nằm trong khả năng cho phép của đơn vị nên có thể xem xét vận dụng nhằm tạo động lực cho CC tham gia ĐTBD chuyên tâm học tập, chú ý đến chất lượng ĐTBD.

+ Khuyến khích hình thức ĐTBD tại chỗ, đào tạo qua công việc: Hình thức này được sử dụng khá phổ biến trong trường hợp tuyển dụng mới CC. Khuyến khích CC chủ động học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Đẩy mạnh học tập suốt đời, tự học là chủ trương của Nhà nước. Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như ngày nay, quá trình học tập trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. CC có thể chủ động học tập từ internet để nâng cao trình độ. Trên thực tế, một bộ phận CC TĐKT đã tự nguyện tham gia các khóa ĐTBD như học văn bằng hai, học thạc sĩ. Hầu hết những CC này đều phải tự túc về kinh phí và thời gian. Sau khi tốt nghiệp, hầu hết những CC này không được cơ quan hỗ trợ chi phí. Do đó, bản thân CC ít có động lực để tham gia các khóa ĐTBD khác hay tự học để nâng cao trình độ.

Để khắc phục tình trạng này, các cơ quan quản lý, sử dụng CC TĐKT cần xem xét hỗ trợ thời gian, chi phí cho CC tham gia ĐTBD. Thông tư 105/2001/TT-BTC ngày 15/12/2001 của Bộ Tài chính hướng dẫn sử dụng nguồn kinh phí ĐTBD CC có quy định các cơ quan nhà nước được phép hỗ trợ kinh phí cho CC đi học đại học hoặc sau đại học với số chi tối đa bằng 10% ngân sách nhà nước cấp cho hoạt động ĐTBD của đơn vị. Bộ Nội vụ, UBND tỉnh cần cụ thể hóa chủ trương này và công khai đến tất cả CC TĐKT và khuyến khích CC tự nguyện đi học để nâng cao trình độ.

Thêm vào đó, cần tăng cường nguồn lực vật chất cho công tác đào tạo, bồi dưỡng. Nguồn lực vật chất cần đảm bảo ở cả hai khía cạnh, gồm nguồn lực vật chất của các cơ sở ĐTBD CC, các đơn vị tham gia ĐTBD CC TĐKT và nguồn kinh phí hỗ trợ cho CC tham gia ĐTBD.

- Ở khía cạnh thứ nhất, các cơ sở ĐTBD cần đảm bảo đầy đủ các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động ĐTBD CC. Cụ thể ở đây là các cơ sở thường xuyên tham gia ĐTBD cho CC TĐKT trên địa bàn tỉnh như đã kể ở trên, bao gồm Trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk, Học viện Hành chính Quốc gia (nhất là Phân viện Tây Nguyên), Phân hiệu Đại học Luật Hà Nội tại Tây Nguyên, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, các đơn vị được lựa chọn để tổ chức các khóa tập huấn nghiệp vụ TĐKT cho CC.

Các cơ sở ĐTBD phải bảo đảm các tiêu chuẩn tối thiểu của một cơ sở ĐTBD CC hiện đại, như: các phòng học chức năng đảm bảo số lượng học viên quy định, ký túc xá, khu vui chơi giải trí thể thao; trang thiết bị giảng dạy hiện đại (hệ thống máy tính, máy chiếu, đèn chiếu, bảng giấy lật, tivi, camera…), vì vậy cần quan tâm, đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng viên và học viên. Để góp phần nâng cao chất lượng ĐTBD thì việc đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc dạy và học tại các cơ sở ĐTBD có vai trò hết sức quan trọng. Thực tế đã cho thấy, cùng với việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên thì không gian, môi trường, điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu như hội trường, phòng học đa chức năng, thư viện điện tử, hệ thống máy chiếu…điều kiện ăn, ở, sinh hoạt, vui chơi, giải trí của học viên cũng cần được quan tâm đúng mức làm cho mỗi CC khi tham gia các chương trình ĐTBD tại các cơ sở ĐTBD cảm thấy yên tâm về chất lượng, đời sống văn hóa, tinh thần được nâng cao, yêu thích và gắn bó với cơ sở ĐTBD.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở vật chất để tổ chức các lớp BD nghiệp vụ TĐKT do Ban TĐKT Trung ương, Ban TĐKT tỉnh Đắk Lắk tổ chức cũng cần được đảm bảo. Tính chất của các lớp tập huấn này thường là rất đông CC tham gia, thời gian tổ chức ngắn, thường tổ chức ở địa phương, Sở Nội vụ chịu trách nhiệm mượn hoặc thuê địa điểm tổ chức. Vì không thường xuyên tổ chức, mỗi năm chỉ tổ chức một đến hai lần nên cơ sở vật chất phục vụ khóa BD thường ít được quan tâm. Do đó, trong thời gian tới, cần quan tâm đến vấn đề cơ sở vật chất của các khóa BD này.

- Ở khía cạnh thứ hai, tăng cường hỗ trợ kinh phí cho CC TĐKT tham gia ĐTBD.

Đào tạo, bồi dưỡng công chức làm công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 13

Kinh phí ĐTBD CC bao gồm: kinh phí do ngân sách nhà nước cấp, kinh phí của cơ quan, đơn vị có CC đi học, kinh phí của người học, kinh phí do tài

trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Trong những năm qua, Nhà nước đã chủ trương khuyến khích ĐTBD của CC, tuy nhiên, do kinh phí còn hạn hẹp nên kinh phí cho hoạt động này còn hạn chế. Trong điều kiện ngân sách hạn hẹp, các cơ quan quản lý, sử dụng CC TĐKT nên xem xét, cắt bỏ những khoản chi lãng phí không cần thiết, dành tỉ lệ thích đáng cho ĐTBD, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực trong xã hội, nâng cao trách nhiệm đóng góp của người học.

3.2.5. Hoàn thiện hệ thống pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng công chức làm công tác thi đua khen thưởng

CC TĐKT làm việc ở lĩnh vực cụ thể và trong các cơ quan cụ thể nên ngoài các quy định pháp lý chung về ĐTBD, CC còn chịu sự tác động của các Luật chuyên ngành như Luật Thi đua khen thưởng năm 2013, các quy định của địa phương về ĐTBD. Các văn bản quy định về hỗ trợ kinh phí cho CC nói chung, CC TĐKT nói riêng chưa tạo điều kiện cho CC tham gia ĐTBD. Nhưng hiện nay, không có văn bản pháp luật riêng nào về ĐTBD CC TĐKT. CC TĐKT chịu sự điều chỉnh chung của các văn bản pháp luật chung về ĐTBD CBCC của Nhà nước, nhất là Nghị định 101/2017/NĐ-CP, Nghị định 89/2021/NĐ-CP.

Nhà nước cũng cần nghiên cứu, xem xét bổ sung quy định chặt chẽ hơn việc sử dụng kết quả ĐTBD vào sử dụng, đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm CC. Ở chương 2 cũng đã phân tích nguyên nhân CC chưa thực sự coi trọng việc học tập để chiếm lĩnh kiến thức, chất lượng thực sự của hoạt động ĐTBD ít được quan tâm. CC học để đáp ứng yêu cầu về bằng cấp là chủ yếu. Do đó, nên xem xét, bổ sung các quy định sử dụng kết quả học tập của CC vào công tác sử dụng, đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm CC. Điều này sẽ góp phần buộc CC phải học tập nghiêm túc và nâng cao chất lượng học tập của mình lên hơn.

Các quy định về hỗ trợ kinh phí trong ĐTBD CC cũng cần được xem xét bổ sung nếu cần thiết. Thông tư 105/2001/TT-BTC ngày 15/12/2001 của Bộ Tài chính hướng dẫn sử dụng nguồn kinh phí ĐTBD CBCC có quy định các cơ quan nhà nước được phép hỗ trợ kinh phí cho CC đi học đại học hoặc sau đại học với số chi tối đa bằng 10% ngân sách nhà nước cấp cho hoạt động ĐTBD của đơn vị. UBND tỉnh Đắk Lắk cần cụ thể hóa chủ trương này và công khai đến tất cả các CC trong ngành và khuyến khích CC tự nguyện tham gia ĐTBD để nâng cao trình độ.

Ngoài các quy định chung về ĐTBD CC, Luật Thi đua khen thưởng nên xem xét bổ sung quy định về ĐTBD CC TĐKT. Hiện nay, Nghị định 91/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng chỉ có một điều quy định về ĐTBD. Trong đó, khoản 2 quy định: “Ban TĐKT phối hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh xây dựng nội dung chương trình, giáo trình, tài liệu ĐTBD về nghiệp vụ TĐKT để đưa vào giảng dạy trong hệ thống các trường chính trị trên toàn quốc” [10] không phù hợp với một số quy định khác và xu hướng ĐTBD CC. Hiện nay, với xu hướng đẩy mạnh BD theo vị trí việc làm, theo nhu cầu xã hội. Một số cơ sở ĐTBD khác cũng được quy định chức năng BD nghiệp vụ cho CC TĐKT. Cụ thể, điểm g, khoản 1, điều 2 Quyết định số 05/2018/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia quy định: “Học viện Hành chính Quốc gia có nhiệm vụ BD kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ cho CBCC, viên chức làm công tác TĐKT, công tác tôn giáo”. Điều này có nghĩa là việc ĐTBD CC TĐKT không chỉ triển khai ở các trường chính trị mà còn ở cơ sở ĐTBD này (Học viện Hành chính Quốc gia). Bên cạnh đó, trường Đại học Nội vụ Hà Nội tuy không có chuyên ngành đào tạo trực tiếp về TĐKT nhưng có những học phần, chuyên đề liên quan đến TĐKT. Nghĩa là về thực chất, việc giảng dạy kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ về TĐKT cũng được triển khai

ở cả cơ sở ĐTBD này. Do đó, Nhà nước nên nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định pháp lý cho phù hợp.

Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành cũng đã bộc lộ những điểm không còn phù hợp với thực tiễn mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung qua các năm. Trên thực tế, Dự thảo Luật sửa đổi Luật Thi đua, khen thưởng đã cơ bản hoàn thiện để khắc phục những hạn chế của Luật hiện hành. Tuy nhiên, đến nay cũng chưa được ban hành mới. Do đó, Nhà nước cần xem xét, đẩy nhanh tiến độ ban hành Luật sửa đổi để tạo điều kiện cho công tác TĐKT, QLNN về TĐKT nói chung và ĐTBD CC về TĐKT nói riêng.

3.2.6. Tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý, sử dụng công chức với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng

Ở chương 2, đề tài cũng đã chỉ ra một trong những nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động ĐTBD CC TĐKT trên địa bàn tỉnh là do thiếu sự phối hợp giữa cơ quan quản lý, sử dụng CC với các cơ sở ĐTBD. Sự phối hợp này, trước hết sẽ góp phần quan trọng trong việc xác định nhu cầu ĐTBD và đánh giá trong, sau quá trình ĐTBD. ĐTBD chỉ dựa vào những chương trình đã định sẵn của các cơ sở ĐTBD sẽ không thể giải quyết triệt để vấn đề nâng cao chất lượng ĐTBD. Xác định đúng nhu cầu là nền tảng, là bước đi đầu tiên trong quy trình ĐTBD. Nếu bước đầu tiên sai thì các bước sau khó có thể mang lại kết quả như mong muốn. Thực tế cho thấy, để xác định đúng nhu cầu ĐTBD phải bắt nguồn từ các cơ quan sử dụng, quản lý CC và chính bản thân CC. Tuy nhiên, đơn vị thực hiện ĐTBD lại là các cơ sở ĐTBD. Do đó, cần sự phối hợp giữa các đơn vị này để đảm bảo xác định đúng nhu cầu ĐTBD CC TĐKT.

Đặc biệt, trong đánh giá ĐTBD CC, rất cần sự kết hợp giữa hai bên để đánh giá quá trình, kết quả của CC khi tham gia ĐTBD. Ở mặt thứ nhất, cơ quan quản lý, sử dụng CC chỉ có thể nắm bắt được những thông tin về quá trình ĐTBD của CC thông qua các cơ sở ĐTBD mà CC tham gia, từ đó có

thể kịp thời can thiệp, nhắc nhở nếu CC không nghiêm túc. Ngược lại các cơ sở ĐTBD chỉ có thể đánh giá đầy đủ, chính xác chất lượng ĐTBD CC khi có thông tin phản hồi từ chính các cơ quan quản lý, sử dụng CC. Trong thời gian qua, gần như mối quan hệ giữa các bên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã được cải thiện, có sự phối hợp tốt hơn nhưng vẫn chưa thực sự chặt chẽ và hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng ĐTBD.

Để thiết lập và duy trì được mối quan hệ này, các cơ quan quản lý, sử dụng CC TĐKT nên có sự trao đổi về công tác ĐTBD, nhất là công tác BD với các cơ sở ĐTBD thông qua các buổi làm việc trực tiếp. Sở Nội vụ nên làm việc với các cơ sở ĐTBD để nắm bắt các chương trình BD mà các cơ sở này cung ứng, trên cơ sở những năng lực còn thiếu hụt của đội ngũ CC TĐKT để xây dựng kế hoạch BD cho phù hợp và thiết thực. Những cuộc gặp gỡ, trao đổi này cần tập trung vào các nội dung giới thiệu về thực trạng đội ngũ CC TĐKT, những mong muốn mà chính quyền địa phương mong muốn về năng lực, phẩm chất của đội ngũ CC, lắng nghe tư vấn, hỗ trợ của các cơ sở ĐTBD, từ đó các bên cùng phối hợp để ĐTBD CC. Những cuộc trao đổi này nên được bố trí theo quý hoặc theo năm, tùy thuộc vào thời gian của các cấp lãnh đạo.

Bên cạnh đó, dựa trên những nội dung các bên đã trao đổi, làm việc, các bên nên cử một đơn vị hoặc một CC chịu trách nhiệm liên hệ, trao đổi thông tin giưa các bên. Sự liên hệ này cần được duy trì thường xuyên và lâu dài vì tổ chức luôn biến đổi và nhu cầu BD cũng thay đổi theo thời gian. Đặc biệt, sau khi CC kết thúc các khóa ĐTBD và quay trở lại cơ quan làm việc, các đơn vị cần nắm bắt thông tin, trao đổi những thông tin về năng lực của CC sau khi tham gia ĐTBD. Những thông tin này sẽ là cơ sở quan trọng để các cơ sở ĐTBD điều chỉnh chất lượng và thiết kế các chương trình ĐTBD phù hợp với yêu cầu phát triển năng lực CC mà địa phương mong muốn.

Ngoài ra, cần gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng, đánh giá công chức. Sử dụng kết quả ĐTBD vào việc sử dụng, đánh giá, quy hoạch,

bổ nhiệm đối với CC TĐKT. Phải có quy chế rõ ràng, minh bạch trong việc sử dụng kết quả ĐTBD vào việc tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm CC. Trên cơ sở đó mới có cơ sở để sử dụng, đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm đúng người, đúng việc, đúng số lượng, đảm bảo cơ cấu hợp lý.

Sau khi CC tham gia ĐTBD, các cơ quan quản lý, sử dụng CC cần cân nhắc, xem xét để bố trí đúng vị trí công việc cho CC, đảm bảo phát huy được năng lực của CC sau ĐTBD. Điều này sẽ thúc đẩy CC tích cực tham gia ĐTBD một cách nghiêm túc.

Cần sử dụng kết quả ĐTBD vào việc đánh giá thường xuyên để tiếp tục quy hoạch, bổ nhiệm CC. Đánh giá là khâu quan trọng trong quá trình quản lý CC. Các quy định về đánh giá CC thời gian qua đã có những cải tiến quan trọng trong Luật, Nghị định chuyển từ cách thức tự kiểm điểm và bình bầu sang đánh giá trên các tiêu chí cụ thể. Trong đó, đã có quy định về việc sử dụng kết quả học tập, ĐTBD vào đánh giá CC, nhất là đánh giá hàng năm. Tuy nhiên, trên thực tế, quy định này lại chưa được các cơ quan quản lý, sử dụng CC quan tâm, thậm chí sử dụng khi đánh giá CC. Nhiều CC có kết quả học tập tốt cũng không có gì khác so với CC có kết quả học tập trung bình, không được sử dụng kết quả này vào đánh giá CC. Thậm chí, ở một số đơn vị, khi CC tham gia ĐTBD, còn bị đánh giá ở mức thấp hơn do ảnh hưởng đến công việc của cơ quan, đơn vị. Vì thế, nhiều CC thiếu động lực tham gia ĐTBD, hoặc khi tham gia ĐTBD ít quan tâm đến chất lượng học tập. Do vậy, trong thời gian tới, các cơ quan sử dụng, quản lý CC TĐKT cần chú ý sử dụng kết quả ĐTBD của CC vào hoạt động đánh giá CC.

Hiện nay, pháp luật đã quy định những tiêu chuẩn cụ thể để quy hoạch, bổ nhiệm đối với CC. Bằng cấp, chứng chỉ ĐTBD vẫn là tiêu chí cứng. Tuy nhiên, pháp luật mới chỉ dừng lại ở quy định có đủ văn bằng, chứng chỉ chứ không xét đến xếp loại của các văn bằng, chứng chỉ này. Do đó, khi CC tham gia ĐTBD, CC thường có tâm lý học để được cấp bằng, chứng chỉ, ít quan tâm đến chất lượng ĐTBD. Do đó, về lâu dài, Nhà nước nên tính toán, xem xét sử

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/08/2023