Bảng 3.6: Phân tích về tỷ lệ nợ xấu
Đơn vị: %
Năm 2011 | Năm 2012 | Năm 2013 | Năm 2014 | |
Tỷ lệ nợ xấu | 6,17 | 4,31 | 4,8 | 4,3 |
Tỷ lệ nợ xấu mục tiêu | 3,0 | 6,0 | 5,0 | 3,0 |
Tốc độ gia tăng nợ xấu | 76,04 | -24,59 | 23,18 | 3,27 |
Tốc độ tăng trưởng tín dụng | 7,06 | 8,20 | 10,44 | 14,08 |
Tốc độ gia tăng nợ xấu/tốc độ tăng trưởng tín dụng | 10,77 | -2,99 | 2,22 | 0,25 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Tài Sản Của Các Ngân Hàng Thương Mại Và Công Ty Tài Chính Ở Thái Lan Vào Tháng 6/1997 Và Tháng 12/2006
- Cơ Cấu Tổ Chức Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Số Lượng Chi Nhánh, Pgd Và Atm Của Các Nhtm Việt Nam Năm 2014
- Khái Quát Mô Hình Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Nhno&ptnt Việt Nam
- Tình Hình Thanh Lý Nợ Xấu Của Nhno&ptnt Việt Nam Giai Đoạn 2010 - 2014
- Những Điểm Còn Hạn Chế Và Nguyên Nhân
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNoPTNT Việt Nam và tính toán của tác giả
Căn cứ trên kết quả Bảng 3.6 ta thấy: tỷ lệ nợ xấu mục tiêu của NHNo&PTNT Việt Nam được xây dựng khá cao trong 2 năm 2012 và 2013 chứng tỏ ngân hàng cũng đã dự đoán được khả năng phát sinh nợ xấu trong năm kế hoạch. Nhìn về mặt số liệu, trong 2 năm 2012, 2013 tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng thấp hơn tỷ lệ mục tiêu, đây là tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, trong năm 2012, tỷ lệ nợ xấu ở các thời điểm trong năm 2012 lại rất cao như tại 20/2/2012 tỷ lệ nợ xấu là 6,94%, 7/3/2012 tỷ lệ nợ xấu là 7,3%, 22/6/2012 là 6,77%. Như vậy, xét về chỉ tiêu kế hoạch thì trong 2 năm này đạt nhưng đi sâu vào thực tế sẽ thấy rất nhiều vấn đề tồn tại ở đây. Xét về tốc độ gia tăng nợ xấu đạt đỉnh vào năm 2011 với tỷ lệ 76,04% nhưng sang năm 2012 thì tỷ lệ này lại giảm sâu vì sang năm 2012 NHNo&PTNT Việt Nam đã áp dụng nhiều biện pháp xử lý nợ đạt được kết quả tốt. Sang năm 2013, tỷ lệ nợ xấu lại gia tăng cao, do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Tuy nhiên, tỷ lệ này lại giảm mạnh vào năm 2014 còn 3,27%. So sánh với tốc độ tăng trưởng, bức tranh này lại có thêm nhiều màu sắc. Tốc độ gia tăng nợ xấu/tăng trưởng tín dụng đã có xu hướng giảm qua các năm chứng tỏ rằng ngân hàng cũng đã có những nỗ lực để mở rộng tín dụng có chất lượng. Vấn đề một lần nữa được đặt ra về các số liệu báo cáo của NHNo&PTNT Việt Nam có phản ánh hết bản chất của tình trạng nợ xấu tại ngân hàng này hay không.
3.3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
Thực trạng quản lý nợ xấu của NHNo&PTNT Việt Nam được phản ánh lần lượt qua các nội dung: Nhận diện nợ xấu - Đo lường nợ xấu - Ngăn ngừa nợ xấu - Xử lý nợ xấu.
3.3.1. Thực trạng nhận diện, phân loại, đánh giá nợ xấu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Nợ xấu là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của các NHTM, từ đó có thể thấy được sức khoẻ tài chính, kỹ năng quản trị của NHTM đó. Nợ xấu tăng cao có thể dẫn đến ngân hàng bị thua lỗ và giảm lòng tin của người gửi tiền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của ngân hàng. Tình trạng này kéo dài có thể làm cho ngân hàng bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Chính vì vậy, việc nhận diện nợ xấu nói riêng và quản lý nợ xấu nói chung là một trong những vấn đề quan trọng trong quản trị NHTM.
Từ năm 2004 trở về trước, việc quản lý và phân loại nợ tại các NHTM Việt Nam được thực hiện theo Quyết định số 488/QĐ-NHNN thì kể từ năm 2005 đến 2007 các NHTM thực hiện việc quản lý và phân loại nợ theo Quyết định số 493/QĐ- NHNN. Đến năm 2007, NHNN ban hành Quyết định số 18/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của qui định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của các TCTD, được ban hành theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Gần đây, để tăng cường hiệu quả công tác quản lý nợ, siết chặt hoạt động phân loại nợ, NHNN đã ban hành Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 của NHNN về Ban hành Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng DPRR để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; và Thông tư 09/2014/TT- NHNN ngày 18/3/2014 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tu 02/2013/TT- NHNN ngày 21/1/2013 của NHNN về Ban hành Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng DPRR để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
Tại NHNo&PTNT Việt Nam, trên cơ sở các quy định của NHNN, Ngân hàng đã quy định cụ thể hóa việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro. Cụ thể:
- Văn bản số 1406/NHNo-TD ngày 23/5/52007 về Quy định phân loại khách hàng trong hệ thống Agibank.
- Quyết định 636/2007/QĐ-HĐQT-XLRR ngày 22/06/2007 về việc ban hành Quyết định việc trích lập dự phòng và xử lý rủi ro trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
- Quyết định số 666/QĐ-HĐQT-TDDN ngày 15/6/2010 Ban hành Quyết định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam thay thế Quyết định 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/3/2002.
- Quyết định 469/QĐ-HĐTV-XLRR ngày 30/3/2012 của HĐTV về Ban hành quy định phân loại nợ, trích lập DPRR tín dụng trong hệ thống Agibank.
- Quyết định 450/QĐ-HĐTV-XLRR ngày 30/5/2014 về Ban hành quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập DPRR và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của Agibank.
Trong đó Quyết định 450/QĐ-HĐTV-XLRR chủ yếu có hiệu lực từ 1/1/2015 cho nên trong phạm vi nghiên cứu, đánh giá thực trạng của luận án thì cơ sở cho việc phân loại nợ tại NHNo&PTNT Việt Nam dựa trên Quyết định số 469/QĐ-HĐTV- XLRR ngày 30/3/2012.
Từ các văn bản trên có thể thấy: Nợ xấu là khái niệm thuộc phạm trù nợ có vấn đề.Khái niệm nợ có vấn đề được các NHTM Việt Nam xác định bao gồm:
(i) Nợ xấu theo qui định phân loại nợ của NHNN, đó là các khoản nợ thuộc 3 nhóm cuối (Nhóm 3, 4, và 5).
(ii) Nợ đã xử lý bằng quĩ DPRR đang hạch toán ở ngoại bảng.
(iii) Nợ chưa bị phân vào nhóm nợ xấu nhưng có dấu hiệu rủi ro.
Như vậy, có thể nói ngoài nội dung thứ 2 (nợ đã xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro đang hạch toán ngoài bảng), việc nhận biết nợ xấu trước hết phải được thực hiện từ khi các khoản nợ xấu này chưa thực sự hiện diện nhưng có dấu hiệu rủi ro. Điều này tạo cơ sở cho ngân hàng chủ động quản lý đối với các khoản nợ đang ở nhóm 1, nhóm 2 nhưng xuất hiện nguy cơ chuyển thành nợ xấu, từ đó có hướng xử lý kịp thời và hạn chế tối đa sự gia tăng nợ xấu. Nợ xấu thực sự xuất hiện khi các khoản nợ thuộc nhóm 1, nhóm 2 bị nhảy nhóm theo các điều kiện được quy định theo Quyết định phân loại nợ của Ngân hàng Nhà nước.
Theo đó trong giai đoạn 2006-2011, NHNo&PTNT Việt Nam phân loại nợ theo phương pháp định lượng. Năm 2012 có thể coi là mốc đáng ghi nhận khi NHNo&PTNT Việt Nam bắt đầu tiến hành áp dụng phân loại nợ kết hợp cả 2 phương pháp định lượng và định tính với sự hỗ trợ của hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng nội bộ theo phương án được sự chấp thuận của NHNN.
Việc phân loại nợ theo phương pháp định lượng hoàn toàn dựa vào thời gian quá hạn của khoản nợ - các khoản nợ đang trong hạn bị suy giảm khả năng trả nợ sẽ
không được nhận diện chính xác về rủi ro. Chính vì vậy việc áp dụng phương pháp định tính là bước tiến quan trọng giúp cho NHNo&PTNT Việt Nam hoàn thiện công tác nhận diện, đánh giá, phân loại rủi ro, để từ đó xác định đúng bản chất rủi ro từng khoản nợ. Trong đó nếu khoản nợ được phân loại theo 2 phương án có kết quả khác nhau sẽ xếp vào nhóm có rủi ro cao hơn.
Theo QĐ 469/QĐ-HĐTV-XLRR, trên cơ sở kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ, ngân hàng xác định các nhóm nợ dựa trên hạng khách hàng. Cụ thể:
Phân loại nhóm nợ | Nhóm nợ | |
AAA | Nợ đủ tiêu chuẩn | Nhóm 1 |
AA | ||
A | ||
BBB | Nợ cần chú ý | Nhóm 2 |
BB | ||
B | Nợ dưới tiêu chuẩn | Nhóm 3 |
CCC | ||
CC | ||
C | Nợ nghi ngờ | Nhóm 4 |
D | Nợ có khả năng mất vốn | Nhóm 5 |
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được Agibank nơi cho vay đánh giá là có khả năng thanh khoản cao, thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. Khách hàng có thu nhập ổn định trong quá khứ hoặc hiện tại và có thể dự đoán trong tương lai, sẵn có nguồn vốn thay thế. Có khả năng cạnh tranh trong ngành; ngành nghề kinh doanh ổn định và phát triển, gồm các khoản nợ của khách hàng được xếp hạng AAA, AA, A.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được Agibank nơi cho vay đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi trong tương lai nhưng hiện tại có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ, gồm các khoản nợ của khách hàng được xếp hạng BBB, BB.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được Agibank nơi cho vay đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn, có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi, gồm các khoản nợ của khách hạng được xếp hạng B, CCC, CC.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được Agibank nơi cho vay đánh giá là khách hàng thường xuyên không trả được nợ gốc và lãi khi đến hạn, có khả năng tổn thất cao gồm các khoản nợ của khách hàng được xếp hạng C.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được Agibank nơi cho vay đánh giá là không có khả nang thu hồi, mất vốn, gồm các khoản nợ của khách hàng được xếp hạng D.
Bên cạnh đó, NHNo&PTNT Việt Nam cũng quy định các trường hợp phải chủ động phân loại các khoản nợ vào các nhóm nợ có rủi ro cao hơn khi xem xét thông tin về khách hàng. Theo đó, một khoản nợ được xếp ở nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) theo phương pháp định lượng nhưng nếu nếu căn cứ vào xếp hạng tín dụng thấp thì có thể bị xếp vào các nhóm nợ cao hơn, thậm chí là nợ xấu (nhóm 3, 4, 5). Rõ ràng, nếu phân loại nợ theo QĐ 469/QĐ-HĐTV-XLRR của NHNo&PTNT Việt Nam thì tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ có thể sẽ tăng cao hơn nhiều nếu như thông tin để đánh giá khách hàng là đầy đủ, cập nhật.
Thực tế cho thấy, khi triển khai áp dụng phương pháp nhận diện và phân loại nợ dựa trên hệ thống xếp hạng khách hàng thì một số khoản nợ có chiều hướng xấu rõ ràng mặc dù chưa quá hạn hoặc chưa quá hạn đến mức phải xếp vào nợ xấu nhưng do hạng tín dụng của đối tượng vay vốn có xu hướng giảm sút rõ rệt cũng đã được cân nhắc xếp vào nhóm nợ cao hơn. Tuy nhiên, tỷ trọng của những khoản nợ nhảy nhóm như vậy hiện còn khá ít. Thực tế này do hệ thống xếp hạng tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam được thực hiện theo phương pháp chuyên gia, phụ thuộc lớn vào ý kiến chủ quan của chuyên gia, các dữ liệu lịch sử còn nghèo nàn, chưa sử dụng các mô hình thống kê để đo lường. Vì vậy kết quả xếp hạng chưa phản ánh trung thực rủi ro của khách hàng. Từ đó tác động đến độ chính xác của kết quả phân loại nợ.
NHNo&PTNT Việt Nam cũng đã có những phân tích về sự chênh lệch phân loại nợ so sánh theo điều 6 và điều 7 của Quyết định 493 ở một số thời điểm được thể hiện thông qua bảng sau:
Bảng 3.7: Kết quả phân loại nợ theo điều 6 và điều 7 Quyết định 493/QĐ-NHNN ở một số thời điểm từ năm 2012 - 2013
Tổng dư nợ (tỷ đ) | Nợ xấu (Theo điều 6) | Nợ xấu (Theo điều 7) | Chênh lệch | ||||
Giá trị (Tỷ đ) | % | Giá trị (Tỷ đ) | % | Giá trị (Tỷ đ) | % | ||
01-3-12 | 443.060 | 32.059 | 7,24 | 38.373 | 8,66 | 6.314 | 1,42 |
31-3-13 | 488.606 | 48.868 | 10,0 | 32.147 | 6,58 | -16.721 | -3,42 |
30-9-13 | 506.189 | 58.863 | 11.63 | 31.668 | 6,26 | -27.195 | -5,37 |
Nguồn: Báo cáo của NHNo &PTNT các năm 2012 - 2013
Số liệu từ nguồn báo cáo nội bộ nói trên phần nào cho ta thấy bức tranh thực về việc đo lường, phân loại nợ của NHNo&PTNT Việt Nam trong thời gian vừa qua.
Về tổ chức thực hiện công tác phân loại nợ, NHNo&PTNT nơi cho vay thường xuyên thực hiện việc thu thập thông tin về khách hàng để đánh giá, chấm điểm, xếp hạng khách hàng để phân loại nợ hàng ngày. Đối với các khoản nợ xấu, NHNo&PTNT nơi cho vay phải thực hiện phân loại nợ, đánh giá lại khách hàng thường xuyên để phục vụ công tác quản lý. Cho đến 30/11/2014, NHNo&PTNT Việt Nam đã sử dụng kết quả phân loại nhóm nợ khách hàng theo nhóm nợ có mức độ rủi ro cao nhất do CIC cung cấp để rà soát, phân tích số liệu. Tổng số khách hàng chuyển nhóm nợ cao nhất theo CIC là 15.405 khách hàng, dư nợ xấu được chuyển sang là 7.562 tỷ đồng.
Có thể thấy rằng:
Thứ nhất, số liệu về tỷ lệ nợ xấu ở các thời điểm trong năm cao hơn nhiều so với số liệu báo các ở các thời điểm cuối năm (thời điểm báo cáo chính thức). Như vậy, ở thời điểm báo cáo chính thức các khoản nợ xấu đã được cơ cấu lại hoặc đã được đảo nợ nhằm làm giảm số liệu thực về tỷ lệ nợ xấu.
Thứ hai, sang năm 2013, số liệu nợ xấu phân loại theo điều 7 QĐ 493/QĐ- NHNN (cụ thể hóa bằng QĐ 469/QĐ-HĐTV-XLRR của NHNo&PTNT Việt Nam) hơn khá nhiều so với số liệu nợ xấu phân loại theo thời hạn của khoản nợ (chỉ bằng trên 50% cả số tuyệt đối và tương đối). Đây là kết quả khá bất ngờ bởi theo nhận định của các chuyên gia, kết quả nợ xấu phân loại theo xếp hạng khách hàng rất ít khi thấp hơn so với việc phân loại theo phương pháp định lượng. Sự chênh lệch quá lớn và theo xu hướng ngược chiều với thông lệ của NHNo&PTNT Việt Nam trong việc phân loại nợ đã phản ánh một thực trạng là hệ thống phân loại nợ theo xếp hạng tín dụng chưa thực sự đáng tin cậy và rất có thể đã được sử dụng như một công cụ để che dấu thực trạng nợ xấu của ngân hàng. Theo Logic, khách hàng có thể có hạng tín dụng cao khi vay vốn nhưng khi phát sinh các khoản nợ quá hạn thì lẽ ra hạng tín dụng của khách hàng sẽ phải xuống hạng. Tuy nhiên, việc phân hạng tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam là khá máy móc, có thể chỉ căn cứ vào lịch sử giao dịch quá khứ của khách hàng mà phân hạn tín dụng và từ đó xác định nhóm nợ của các khoản vay mà không cập nhật kịp thời tình trạng tín dụng của khách hàng nên dẫn đến kết quả phân loại nợ xấu không chuẩn xác. Đây là một nhược điểm cần được khắc phục trong việc đo lường và phân loại nợ xấu.
Đi sâu hơn nữa, như được trình bày trong chương 2, đo lường nợ xấu cần phải ước lượng được tỷ lệ tổn thất dự tính và xác suất vỡ nợ của khách hàng trên cơ sở đó ngân hàng sẽ xây dựng chính sách định giá và trích lập dự phòng nhằm bù đắp tổn thất cho từng khoản vay, từng khách hàng và toàn bộ danh mục cho vay. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể tính toán các khoản tổn thất không dự tính được và hệ số liên quan vỡ nợ của các khoản vay riêng lẻ trong một danh mục các khoản cho vay đối với khách hàng. Tuy nhiên, NHNo&PTNT Việt Nam cũng như nhiều ngân hàng khác chưa thực hiện được những ước lượng này theo thông lệ quốc tế như tiêu chuẩn của Basel 2. Điều này gây ra những khó khăn cho quá trình ngăn ngừa nợ xấu tiếp theo.
3.3.2. Thực trạng ngăn ngừa nợ xấu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Trong giai đoạn 2010- 2014 NHNo&PTNT Việt Nam đã áp dụng các biện pháp sau trong hoạt động kiểm soát nợ xấu.
Thứ nhất, xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam
Quản trị rủi ro là một nội dung quan trọng gắn liền với mọi hoạt động của ngân hàng thương mại. Quản trị rủi ro tín dụng không có nghĩa là né tránh rủi ro mà là việc xác định một mức độ rủi ro tín dụng để từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro, cũng như nhận biết được rủi ro trên cơ sở đó đưa ra các chính sách và biện pháp để đảm bảo rủi ro tín dụng của ngân hàng không vượt quá mức xác định trước đó.
Quản trị rủi ro tín dụng là một hệ thống bao gồm (i) Các công cụ nhận biết, đánh giá và đo lường mức độ rủi ro (ii) Các cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ nhằm thiết lập các giới hạn hoạt động an toàn và các chốt kiểm soát, ngăn chặn, hạn chế rủi ro; (iii) Tổ chức bộ máy quản trị rủi ro và (iv) Các phương án, biện pháp xử lý khi có rủi ro xảy ra.
Nhằm mục đích phòng ngừa và giảm thiểu nợ xấu đồng thời thực hiện theo các văn bản hướng dẫn cuả Ngân hàng nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam đã xây dựng mô hình quản trị rủi ro đối với hệ thống. Trước năm 2010, NHNo&PTNT Việt Nam quản trị rủi ro theo phương pháp định lượng (tức tính theo ngày quá hạn) theo quyết định 493 của NHNN.
Kể từ năm 2010, NHNo&PTNT Việt Nam đã chính thức triển khai thêm việc quản trị rủi ro trong toàn hệ thống thông qua hình thức định tính (hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ; viết tắt: HTXHTDNB-RMS). Việc tiến hành đồng thời hai hình thức quản trị rủi ro đã giúp NHNo&PTNT Việt Nam chuẩn hoá, phân loại được khách hàng theo các tiêu chí đầy đủ, có chính sách khách hàng rõ ràng, ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro. Việc áp dụng hệ thống RMS trong toàn hệ thống, đã giúp NHNo&PTNT Việt Nam thích nghi nhanh với việc chuẩn hóa phân loại nợ theo Thông tư 02 và 09 của NHNN.
Hàng tháng, thông qua phương pháp định tính và định lượng, Trung tâm PN&XLRR đã ra cảnh báo tín dụng đối với toàn hệ thống, (cảnh báo cho các chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam trong phạm vi toàn quốc) có biện pháp cần thiết và kịp thời đối với khách hàng có dư nợ lớn, để giảm thiểu nợ xấu. Việc quản trị rủi ro được thực hiện tại mỗi chi nhánh (việc xây dựng chính sách tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng đều do Phòng tín dụng thực hiện. Phòng kiểm tra kiểm soát là bộ phận độc lập giám sát các hoạt động này dưới giác độ hợp pháp, đảm bảo tuân thủ các văn bản quy định và phát hiện các sai sót trong hồ sơ, báo cáo và thực tế thực hiện, đồng thời đề xuất các định hướng và phương án)còn đối với toàn hệ thống sẽ quản trị rủi ro tập trung.
Hiện tại mô hình tổ chức quản trị rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam được xây dựng gồm 3 tầng.
Tầng 1 (Vòng bảo vệ thứ nhất).
Tại Chi nhánh: Tự chịu trách nhiệm quản trị rủi ro gồm bộ phận khối trước (bộ phận tín dụng) và bộ phận khối sau (bộ phận thẩm định quyết định cấp tín dụng và bộ phận kiểm tra, kiểm soát rủi ro). Ngoài ra có cán bộ chuyên xử lý rủi ro.
Tầng 2 (Vòng bảo vệ thứ hai)- Đơn vị thực hiện công tác quản trị rủi ro tại Trụ sở chính gồm: Uỷ ban quản lý rủi ro; Trung tâm Phòng ngừa và Xử lý rủi ro (Trung tâm PN &XLRR) và Ban Kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
- Uỷ ban Quản lý rủi ro với chức năng tham mưu cho Hội đồng thành viên xây dựng lộ trình, kế hoạch triển khai các hoạt động quản lý rủi ro của NHNo&PTNT Việt Nam, ban hành chính sách, qui chế, qui trình liên quan đến quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam.
- Trung tâm PN & XLRR là đơn vị thuộc bộ máy quản lý, điều hành tại Trụ sở chính có nhiệm vụ tham mưu cho HĐTV, Tổng Giám đốc trong việc thu thập, cung cấp, lưu giữ và phân tích thông tin phòng ngừa rủi ro, tổng hợp và xử lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.