Trong nghiên cứu của mình năm 2003, Rogers đã cho thấy người tiêu dùng tích cực nhận thức công nghệ mới và tìm kiếm thông tin liên quan đến việc công nghệ đáp ứng nhu cầu hiện tại của họ. Mô hình IDT mô tả bốn giai đoạn của sự chấp nhận công nghệ:
(1)Giai đoạn thứ nhất – giai đoạn thuyết phục là giai đoạn xây dựng niềm tin về một sản phẩm, dịch vụ mới và chủ động tìm kiếm thông tin liên quan đến sản phẩm, dịch vụ mới.
(2)Giai đoạn thứ hai – Giai đoạn quyết định, người tiêu dùng sẽ tham gia vào các hoạt động dẫn đến việc chấp nhận sản phẩm mới.
(3)Giai đoạn thứ ba – giai đoạn thực hiện, người tiêu dùng bắt đầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ mới.
(4)Giai đoạn thứ tư – giai đoạn xác nhận, các cá nhân có thể xem xét lại quyết định của mình thông qua các sản phẩm, dịch vụ mới. Đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực khi sử dụng, từ đó có thể tiếp tục sử dụng hoặc từ chối sử dụng.
Rogers (2003) thừa nhận rằng một sự đổi mới được coi là một cái gì đó mới cho một đơn vị cá nhân, xã hội và có ảnh hưởng đến tỷ lệ chấp nhận sản phẩm mới. Rogers (1962) cho rằng sự thay đổi của thái độ từ 49% đến 87%, có thể được giải thích bởi đặc điểm cơ bản của sản phẩm ảnh hưởng đến hành vi chấp nhận sản phẩm mới là tính phức tạp, tính tương thích, khả năng quan sát, khả năng thử nghiệm, và lợi thế tương đối. Lý thuyết phổ biến của đổi mới Rogers (2003) phát triển nghiên cứu lý thuyết phổ biến của đổi mới của năm 1962, khi Rogers tập trung nghiên cứu để phổ biến của sáng kiến nông nghiệp ở vùng nông thôn.
Trong nghiên cứu của Rogers (2003) bốn yếu tố: sự đổi mới, các kênh truyền thông, thời gian, và hệ thống xã hội được nghiên cứu có ảnh hưởng đến ý định chấp nhận và sử dụng dịch vụ của khách hàng.
1.2.2. Mô hình ENGEL-KOLLAT-BLACKWELL (EKB)
Mô hình nghiên cứu hành vi người tiêu dùng của Engel và cộng sự (1978) cho rằng: “Hành vi người tiêu dùng là toàn bộ những hoạt động liên quan đến quá trình tìm kiếm, thu thập, sở hữu tiêu dùng và loại bỏ một sản phẩm. Nó bao gồm cả những quá trình diễn ra trước, trong và sau các hành động đó”.
Mô hình này đã được xây dựng và nghiên cứu các yếu tố liên quan đến hành vi của người tiêu dùng bao gồm các yếu tố: thông tin đầu vào, niềm tin, đặc điểm của mỗi cá nhân và các yếu tố môi trường bên ngoài tác động đến ý định mua hàng. Mô
hình đã mô tả của các mối quan hệ cơ bản giữa các thành phần ảnh hưởng đến hành vi mua của người tiêu dùng bao gồm bốn giai đoạn:
Hình 1. 1 - Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng - mô hình EKB
Nguồn: Engel, Kollat & Blackwell, 1984
- Giai đoạn 1: Thông tin đầu vào
Ở giai đoạn này người tiêu dùng nhận được thông tin từ doanh nghiệp và những nguồn thông tin từ bên ngoai, những thông tin này cũng ảnh hưởng đến giai đoạn xem xét lựa chọn và ra quyết định trong quá trình mua hàng. Nếu chưa đủ thông tin để có thể đưa ra quyết định lựa chọn người tiêu dùng sẽ tìm kiếm các thông tin bên ngoài để việc ra quyết định sẽ đạt được sự hài lòng.
- Giai đoạn thứ 2: Xử lý thông tin
Giai đoạn này bao gồm tiếp xúc của người tiêu dùng, sự chú ý, nhận thức, chấp nhận và ghi nhớ thông tin đến. Người tiêu dùng trước tiên phải được tiếp xúc với những Truyền thông về sản phẩm, tìm hiểu nội dung thông tin này, hiểu và bị hấp dẫn bởi các Truyền thông về sản phẩm, và giữ lại những thông điệp của sản phẩm vào bộ nhớ của mình.
- Giai đoạn 3: giai đoạn quyết định quá trình mua hàng.
Trọng tâm của mô hình là vào năm bước cơ bản quyết định quá trình: xem xét thông tin, tìm kiếm và cân nhắc lựa chọn, đánh giá và lựa chọn (trong đó niềm tin có thể dẫn tới sự hình thành thái độ, do đó có thể dẫn đến một ý định mua), mua sản phẩm, và đánh giá sau khi mua . Nhưng không phải mỗi người tiêu dùng để trải qua tất cả các bước như vậy; nó phụ thuộc vào sự xem xét và lựa chọn của mỗi người tiêu dùng mà có hành vi khác nhau.
- Giai đoạn thứ 4: ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài đến quá trình ra quyết
định mua hàng
Giai đoạn này bao gồm đặc điểm các cá nhân và ảnh hưởng môi trường có ảnh hưởng đến tất cả năm giai đoạn của quá trình ra quyết định. Đặc điểm cá nhân bao gồm động cơ, giá trị, lối sống và nhân cách; những ảnh hưởng xã hội là nền văn hóa, các nhóm tham khảo, và gia đình. Ví dụ như: tình trạng tài chính của người tiêu dùng, cũng ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định.
Mô hình này nhấn mạnh nhân tố giá trị chuẩn mực xã hội ảnh hưởng đến hành vi mua của người tiêu dùng.
1.2.3. Lý thuyết hành động hợp lý (TRA- Theory of Reasoned Action)
Lý thuyết hành động hợp lý (TRA) lần đầu tiên được phát triển bởi Fishbein vào năm 1960, và sau đó được phát triển bởi nghiên cứu của Ajzen và Fishbein năm 1975, đây được xem là học thuyết tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu tâm lý xã hội. Fishbein và Ajzen (1975), xây dựng TRA đã giải thích tốt hơn hành vi của người tiêu dùng, nghiên cứu cho rằng: “Ý định của mỗi cá nhân dựa trên 2 yếu tố cơ bản là (1) thái độ của người tiêu dùng đối với việc thực hiện hành vi và (2) các chuẩn mực chủ quan của người tiêu dùng”.
Trong đó, thái độ của mỗi cá nhân được đo lường bằng niềm tin và sự đánh giá đối với kết quả hành vi đó. Ajzen và Fishbein (1975) nhận định: “lòng tin của khách hàng là tiền đề để khách hàng có thái độ tốt thúc đẩy hành vi và ý định sử dụng sản phẩm. Chuẩn mực chủ quan có thể được đánh giá thông qua 2 yếu tố cơ bản: Mức độ ảnh hưởng từ thái độ của những người có liên quan đối với việc mua sản phẩm, và động cơ của người tiêu dùng làm theo mong muốn của những người liên quan. Thái độ của những người liên quan càng mạnh và mối quan hệ với những người liên quan ấy càng gần gũi thì xu hướng mua của người tiêu dùng càng bị ảnh hưởng nhiều”.
Thái độ
Đo lường niềm tin đôí với những thuộc tính của sản phẩm
Ý định hành vi
Những người xung quanh ảnh hưởng đến suy nghĩ nên hay không nên thực hiện hành vi
Niềm tin đối với những thuộc tính mới của sản phẩm
Chuẩn chủ quan
Sự thúc đẩy làm theo ý muốn do ảnh hưởng những người xung quanh
Hình 1. 2- Mô hình lý thuyết hành vi hợp lý (TRA)
Nguồn: Ajen & Fishbein (1975)
Như vậy, lý thuyết TRA được Fishbein và Ajzen nghiên cứu từ năm 1975 cho rằng: “Yếu tố quan trọng nhất quyết định hành vi của con người là ý định thực hiện hành vi đó. Ý định thực hiện hành vi được quyết định bởi hai nhân tố: thái độ của một người về hành vi và chuẩn chủ quan liên quan đến hành vi”.
Trên thực tế, lý thuyết này có hiệu quả khi dự báo những hành vi nằm trong tầm kiểm soát của ý chí con người.
1.2.4. Lý thuyết hành vi dự định – TPB (Theory of Planned Behaviour)
Ý định hành vi
Nhận thức kiểm soát hành vi
Thái độ
Chuẩn chủ quan
Lý thuyết TPB của Ajzen (1991) là sự mở rộng của lý thuyết TRA để khắc phục hạn chế trong việc giải thích về những hành vi nằm ngoài kiểm soát. Yếu tố thứ ba mà Ajzen bổ sung thêm và cho rằng có ảnh hưởng đến ý định của con người là yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi.
Hình 1. 4– Mô hình lý thuyết hành vi dự định (TPB)
Nguồn: Ajzen (1991)
Theo Ajzen (1991): “ Yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi có thể xuất phát từ bên trong của từng cá nhân (sự quyết tâm, năng lực thực hiện…) hay bên ngoài đối với cá nhân (thời gian, cơ hội, điều kiện kinh tế…)”.
Mô hình TPB được xem như hoàn thiện hơn so với mô hình TRA trong việc dự đoán và giải thích hành vi của người tiêu dùng trong cùng một nội dung và hoàn cảnh nghiên cứu.
1.2.5. Mô hình chấp nhận công nghệ - TAM (Technology Acceptance Model)
Trong lĩnh vực chấp nhận một công nghệ mới (một dịch vụ mới) một số nhà nghiên cứu nhấn mạnh mối quan hệ giữa thái độ và ý định. Davis và cộng sự (1989) xây dựng mô hình TAM chuyên để giải thích và dự đoán về sự chấp nhận và sử dụng một công nghệ, trong đó nhấn mạnh mối quan hệ thái độ và hành vi. Mô hình TAM được xây dựng dựa trên nền tảng của lý thuyết mô hình TRA cho việc thiết lập các mối quan hệ giữa các biến để giải thích hành vi của con người về việc chấp nhận và sử dụng hệ thống thông tin, Davis và cộng sự (1989; 1993).
TAM là một trong những học thuyết mở rộng có ảnh hưởng lớn nhất của Ajzen và Fishbein của lý thuyết về hành động (TRA). Mô hình TAM do Davis và các cộng sự phát triển vào năm 1986. Tương tự mô hình TRA, mô hình TAM được hiệu chỉnh, bổ sung 2 lần vào năm 1989 và 1993. Những điều chỉnh này cho ra đời một mô hình mới – mô hình TAM2.
Mô hình TAM (Davis, 1989) mô tả mối quan hệ nhân quả giữa tính hữu dụng, sự dễ dàng sử dụng của công nghệ và thái độ của người sử dụng đối với công nghệ đó. Trong đó, thái độ của người sử dụng công nghệ chịu sự ảnh hưởng của hai nhân tố là: (1) nhận thức sự hữu ích (Percieved Usefulness - PU) và (2) nhận thức về sự dễ dàng sử dụng (Percieved Ease of Use - PEoU). Nhận thức sự hữu ích là “mức độ để một người tin rằng sử dụng hệ thống đặc thù sẽ nâng cao lợi ích công việc của chính họ”. Nhận thức dễ sử dụng là “mức độ mà một người tin rằng sử dụng hệ thống đặc thù mà không cần sự nỗ lực”. Ngoài ra, trong mô hình TAM, nhận thức của người sử dụng công nghệ lại chịu sự tác động của các biến môi trường như kinh nghiệm, kiến thức, trình độ đào tạo, quy trình công nghệ. Đây vừa là đặc trưng lại vừa là điểm khác biệt chính của mô hình. Khác với mô hình lý thuyết TRA, lý thuyết này nhấn mạnh vai trò tự quyết định của người tiêu dùng trong trong quá trình sử dụng và tiêu dùng.
Thái độ hướng tới sử dụng
Ý định sử dụng
Nhận thức dễ sử dụng
Nhận thức sự hữu ích
Thực sự Sử dụng
Các yếu tố bên ngoài
Hình 1. 3 - Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM)
Nguồn: Fred Davis, 1989.
Khi kiểm định mô hình lý thuyết trong thực tế, năm 1991, Thompson đã đề xuất loại bỏ Dự định (Intention - I) ra khỏi mô hình nghiên cứu và nối trực tiếp từ thái độ sang hành vi. Theo phân tích của Thompson (1991), trong thực tế, doanh nghiệp chỉ quan tâm đến hành động thực sự của người tiêu dùng, trong khi dự định hành động chỉ mang tính xác xuất chủ quan mà người sử dụng thực hiện hành vi. Vì vậy, năm 1993, sau khi tiến hành các nghiên cứu kiểm nghiệm thực tế cũng như tiếp thu đề xuất của Thompson nghiên cứu năm 1991, Davis đã đưa ra mô hình TAM2 với sự loại trừ của thành tố Dự định . Davis chia mô hình TAM2 thành 3 thành phần chính: (1) Thành phần nhận thức bao gồm nhận thức về sự hữu ích và nhận thức về việc dễ sử dụng, (2) Thành phần cảm tính là thái độ và (3) Thành phần hành vi là hành động thực sự.
Nhận thức sự hữu ích
Thái độ hướng tới sử dụng
Nhận thức dễ sử dụng
Các nhân tố bên ngoài
Hành động thực sự
Hình 1. 4 - Mô hình chấp nhận công nghệ TAM 2
Nguồn: Fred Davis, 1993.
1.2.6. Lý thuyết thống nhất chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT)
Lý thuyết thống nhất chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT) của Venkatesh và các cộng sự (2003), giải thích ý định hành vi và hành vi sử dụng của người dùng đối với công nghệ thông tin. Mô hình UTAUT được phát triển thông qua các mô hình như lý thuyết hành vi hợp lý (TRA) của Fishbein và Ajzen, lý thuyết hành
vi dự định (TPB) của Ajen, mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) của Davis và các cộng sự, tích hợp lý thuyết hành vi dự định (TPB) và mô hình lý thuyết phổ biến sự đổi mới (IDT) trong nghiên cứu của Venkatesh và các cộng sự (1996; 2000).
Mô hình UTAUT tập trung nghiên cứu 4 nhân tố chính: Kỳ vọng về hiệu năng (Performance Expectancy – PE), kỳ vọng về sự cố gắng (Effort Expectancy – EE), ảnh hưởng xã hội (Social Influence) và điều kiện vật chất; các biến kiểm soát về nhân khẩu học. Mô hình UTAUT xem xét ảnh hưởng các yếu tố này đến ý định hành vi, trên cơ sở cho rằng ý định hành vi và hành vi thực tế thực sự có quan hệ rất chặt chẽ với nhau.
Mô hình lý thuyết thống nhất chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT)
Ý định hành
vi
Hành vi
Ảnh hưởng xã hội
Điều kiện vật chất
Tuổi
Giới tính
Kinh nghiệm
Tính tự nguyện trải nghiệm
Kỳ vọng về hiệu năng
Kỳ vọng về sự cố gắng
Hình 1. 5 – Mô hình lý thuyết thống nhất chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT)
Nguồn: Venkatesh và các cộng sự, 2003.
1.2.7. Mô hình tiếp thị hỗn hợp – Mô hình 4P
Theo nghiên cứu của Kortler và cộng sự năm 2004 “hộp đen” hay đặc tính của người tiêu dùng phụ thuộc và chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố văn hóa, những yếu tố mang tính chất xã hội và những yếu tố mang tính chất cá nhân và tâm lý. Kortler đã khẳng định: Ý định mua là tiền đề hành vi mua.
Các yếu tố của marketing | Các yếu tố thuộc môi trường |
-Sản phẩm / | -Kinh tế |
DV | -KH-kỹ |
-Giá cả | thuật |
-Phân phối | -Chính trị |
-Xúc tiến | - Văn hóa |
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận và sử dụng dịch vụ ngân hàng khu vực nông thôn ngoại thành Hà Nội - 1
- Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận và sử dụng dịch vụ ngân hàng khu vực nông thôn ngoại thành Hà Nội - 2
- Tổng Quan Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Các Nghiên Cứu Về Ý Định Chấp Nhận Và Sử Dụng Dịch Vụ/công Nghệ Mới Trong Lĩnh Vực Ngân Hàng.
- Các Nghiên Cứu Chính Về Nhân Tố Truyền Thông Về Sản Phẩm/dịch Vụ/công Nghệ Mới.
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
Hộp đen ý thức của người tiêu dùng | |
Đặc điểm | Quá trình |
của người | quyết định |
tiêu dùng. | mua. |
-Văn hóa | -Nhận thức |
-Xã hội | -Tìm kiếm |
-Cá nhân | thông tin. |
-Tâm lý | -Đánh giá |
-Quyết định | |
-Hành vi mua |
-Lựa chọn SP
-Lựa chọn nhãn hiệu.
- Lựa chọn nhà cung ứng…
-Thời gian mua.
-Số lượng mua
Quyết định người tiêu dùng
Hình 1. 6 - Hành vi mua của người tiêu dùng.
Nguồn: P.Kotler và cộng sự (2004)
Mô hình lý thuyết của Kotler (2004), là mô hình lý thuyết quan trọng trong nghiên cứu về hành vi người tiêu dùng và phân tích ý định chấp nhận và sử dụng dịch vụ của khách hàng ở các yếu tố sau: văn hóa, xã hội, đặc điểm của cá nhân và tâm lý người tiêu dùng sẽ ảnh hưởng đến quyết định tiêu dùng.
Hình 1. 7 - Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua của người tiêu dùng.
Nguồn: Kotler và cộng sự (2004)
Kotler đã nghiên cứu các nhân tố bên trong “hộp đen” người tiêu dùng để từ đó tìm hiểu phần lớn các hành vi của người tiêu dùng. Các yếu tố tác động bên ngoài cũng có tác động mạnh đến ý định mua của khách hàng. Các nhân tố bên ngoài, sau khi tương tác với các nhân tố bên trong sẽ tạo ra phản ứng đáp lại từ người tiêu dùng bao gồm: lựa chọn dịch vụ, lựa chọn số lượng mua…. Như vậy, hộp đen ý thức của người mua sẽ có tác động và ảnh hưởng trực tiếp lên ý định hành vi.
1.3. Kinh tế khu vực nông thôn và tổng quan hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam
1.3.1. Kinh tế khu vực nông thôn
Kinh tế khu vực nông nghiệp – nông thôn đóng vai trò rất quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên tùy thộc vào vị trí địa lý, điều kiện và mức độ phát triển của mỗi nước mà tầm quan trọng này sẽ biểu hiện cụ thể khác nhau. Mặc dù vậy vai trò của khu vực nông nghiệp, nông thôn vẫn thể hiện rõ như sau:
-Nông thôn là địa bàn sản xuất và cung cấp lương thực và thực phẩm cho nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của toàn xã hội, cũng là nơi cung cấp nông sản xuất khẩu của mỗi quốc gia.
- Nông thôn là nơi cung cấp nhân lực cho thành thị và các khu công nghiệp vì ở những nước đang phát triển dân số nông thôn chiếm tỷ lệ cao và luồng di chuyển lao động nông thôn ra thành thị rất rõ rệt.
- Nông thôn là thị trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm của thành thị đó là các sản phẩm công nghiệp và các dịch vụ hiện đại. Vì vậy, nông thôn phát triển sẽ góp phần phát triển công nghiệp dịch vụ và phát triển thành thị.
- Nông thôn là nơi lưu giữ các truyền thống phong phú và đa dạng về văn hóa của dân tộc, nông thôn ổn định góp phần ổn định xã hội.
- Nông thôn còn là nơi tạo ra môi trường du lịch sinh thái, môi trường nghỉ dưỡng của mọi tầng lớp trong xã hội…
Thực tế cho thấy rằng, sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển thì nhu cầu về các dịch vụ hỗ trợ đầu vào ngày càng tăng, trong đó nhu cầu về các dịch vụ tài chính, ngân hàng cũng ngày càng tăng cao. Nhu cầu về vốn đầu tư, cung cấp các sản phẩm dịch vụ tiền tệ... và việc chấp nhận rộng rãi và sử dụng ổn định của những phương tiện trao đổi không dùng tiền mặt đã giảm được các chi phí giao dịch, thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh của người dân khu vực nông thôn. Các dịch vụ về tiền tệ, tín dụng khác cũng đóng một vai trò không kém quan trọng trong việc tạo điều kiện chuyên môn hóa trong sản xuất, thương mại và trao đổi hàng hóa. Sự phát triển các sản phẩm dịch vụ tài chính, ngân hàng sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển nông thôn toàn diện. Vì vậy, xây dựng, phát triển các dịch vụ tài chính, ngân hàng cho khu vực nông thôn, các mục tiêu sau đây cũng đang được theo đuổi:
(1) Huy động nguồn lực và cung cấp tài chính cho các hoạt động đầu tư hiệu quả sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
(2) Phân bổ nguồn lực có hiệu quả hơn nữa.
(3) Đóng góp vào việc phân phối thu nhập tốt hơn và xóa đói giảm nghèo qua việc người dân khu vực nông thôn sử dụng các dịch vụ tài chính, ngân hàng để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
(4) Hỗ trợ việc xây dựng các tổ chức tài chính, tín dụng nông thôn phát triển bền vững.
Ý định chấp nhận và sử dụng các sản phẩm dịch vụ được các tổ chức sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế rất quan tâm. Đối với hoạt động của các ngân hàng tìm hiểu các yếu tố tác động đến ý định chấp nhận và sử dụng dịch vụ sẽ góp phần tác động tới phát triển hoạt động các tổ chức ngày càng được các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới quan tâm và nghiên cứu. Nghiên cứu Honohan (2004a, 2004b) và Beck (2007) cho rằng thiếu tiếp cận với các dịch vụ tài chính sẽ cản trở và ngăn ngừa phụ nữ tham gia kinh doanh và phát triển kinh tế trong một nền kinh tế thị trường hiện đại. Những bằng chứng thực nghiệm sử dụng dữ liệu hộ gia đình cho thấy rằng tiếp cận và sử dụng với các dịch vụ tài chính cơ bản như tiết kiệm, thanh toán và tín dụng có thể tạo ra chuyển biến đáng kể trong việc cải thiện nghèo (Caskey và cộng sự, 2006; Dupas và Robinson 2009). Khó tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính thường là trở ngại chính đối với tăng trưởng (Schiffer and Weder 2001; Cressy, 2002; IADB, 2004; Beck và cộng sự 2003, 2005, 2006, 2008). Nghiên cứu của Adams và cộng sự (1992, 1995) cho thấy vai trò của dịch vụ ngân hàng đã cải thiện được cuộc sống của người dân nông thôn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho toàn bộ cộng đồng. Với vai trò quan trọng khu vực nông nghiệp nông thôn, với các chính sách phát triển của mỗi quốc gia và của NHTW hiện tại, các sản phẩm dịch vụ tài chính, ngân hàng cung cấp cho khu vực này đang ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Luzzi và Weber (2006); Guarati (1995) trong nghiên cứu đã chỉ ra phát triển các tổ chức tài chính nông thôn, phát triển các dịch vụ tài chính cho khu vực này là tiền đề phát triển kinh tế. Phạm và cộng sự (2002) nghiên cứu về các yếu tố phát triển tài chính nông thôn ở Việt Nam; Quách Mạnh Hào (2005) đã chứng minh tiếp cận với các dịch vụ tài chính giúp xóa đói giảm nghèo cho các hộ gia đình nông thôn Việt Nam; Christen (1995) đã phân tích một mô hình tài chính nông thôn thành công. Zook (2005) qua nghiên cứu đã chứng minh dịch vụ tài chính vi mô có mối quan hệ với chiến lược xóa đói giảm nghèo.
Tại các nước phát triển, hầu hết mọi người dân đều tiếp cận được với các dịch vụ tài chính (Peachy and Roe, 2004), một phần lớn số dân chưa tiếp cận được với các dịch vụ tài chính hầu hết là những gia đình có thu nhập thấp. Với sự tăng trưởng của
các đô thị hóa và các quyết định chính sách của NHTW của các quốc gia đang phát triển đã tạo cơ sở, điều kiện để người dân khu vực này có thể tiếp cận được với các dịch vụ tài chính đang phát triển nhanh chóng. Mặc dù vậy, tại các vùng nông thôn các nước chậm và đang phát triển, những người dân thường rất khó khăn khi tiếp cận được với các dịch vụ tài chính và ngân hàng mà họ cần. Dịch vụ tài chính, ngân hàng có sẵn tương đối truyền thống và chi phí cao. Các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính, ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn phải đối mặt với nhiều khó khăn như: cơ sở hạ tầng nghèo nàn, trình độ học vấn thấp. Hơn nữa các sản phẩm chủ yếu là sản phẩm cho vay vốn lưu động phục vụ sản xuất theo mùa vụ và độ rủi ro của các khoản cho vay này cũng phụ thuộc vào độ rủi ro mùa vụ. Các hộ gia đình khu vực này mặc dù rất tích cực tìm cách để sử dụng các dịch vụ tài chính sẵn có để cải thiện năng suất và hiệu quả cho hoạt động đầu tư của họ, tuy nhiên, những gói dịch vụ tài chính này thường bị hạn chế vì vậy cơ hội đầu tư thoát nghèo càng trở nên khó khăn. Qua phân tích những kết quả hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô ở các quốc gia đang phát triển cho thấy nhiều nỗ lực của các tổ chức này đã không tạo ra kết quả như mong đợi và một số tổ chức tài chính đã rút vốn. Hiện nay, một số các NHTM gần như thiếu quan tâm đến môi trường này do: nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, trình độ giáo dục và các kiến thức còn hạn chế để có khả năng tiếp cận được với những giao dịch hiện đại tại các NHTM.
Theo các kết quả chủ yếu của điều tra năm 2014 của Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tại Việt Nam công bố: dân số Việt Nam đạt hơn 90 triệu người. Trong số này có khoảng 33 % dân số sống tại khu vực thành thị và 67% tại các vùng nông thôn (như vậy người dân sống ở khu vực nông thôn (chiếm khoảng 2/3 tổng dân số).
Bảng 1. 1- Tốc độ tăng sản phẩm trong nước các năm 2013, 2014, 2015
Tốc độ tăng so với năm trước (%) | Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng năm 2015 (Điểm phần trăm) | |||
Năm 2013 | Năm 2014 | Năm 2015 | ||
Tổng số | 5,42 | 5,98 | 6,68 | 6,68 |
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản | 2,63 | 3,44 | 2,41 | 0,40 |
Công nghiệp và xây dựng | 5,08 | 6,42 | 9,64 | 3,20 |
Dịch vụ | 6,72 | 6,16 | 6,33 | 2,43 |
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sp | 6,42 | 7,93 | 5,54 | 0,65 |
Nguồn: Tổng cục thống kê 2015
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2015 ước tính tăng 6,68% so với năm 2014. Theo nguồn tổng cục thống kê (2015) cho thấy: “Trong mức tăng 6,68% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,41%, thấp hơn mức 3,44% của năm 2014, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,64%, cao hơn nhiều mức tăng 6,42% của năm trước, đóng góp 3,2 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,33%, đóng góp 2,43 điểm phần trăm ”.
Như vậy, khu vực nông nghiệp nông thôn đang sở hữu một bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất là đất đai và người lao động song đóng góp và tăng trường kinh tế còn chưa tương xứng. Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, trồng trọt vẫn chiếm tới trên 70%, ngành chăn nuôi chỉ chiếm khoảng trên 25% giá trị sản xuất nông nghiệp, còn tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ chiếm chưa tới 3%.
Chính sách phát triển kinh tế Chính Phủ luôn nhấn mạnh tầm quan trọng trong phát triển nông nghiệp – nông thôn: “Nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững...” Hàng loạt các chính sách phát triển dịch vụ ngân hàng, tài chính đã được ban hành để phục vụ sản xuất nông nghiệp - nông thôn, mạng lưới của các tổ chức tín dụng nông nghiệp - nông thôn nước ta ngày càng phát triển và mở rộng, đã cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích cho các hộ sản xuất khu vực nông thôn, đã giúp cho nhiều hộ sản xuất nông thôn cải thiện được tình trạng thiếu vốn, đáp ứng được nhu cầu giao dịch trong kinh doanh. Các tổ chức tài chính nông thôn đã từng bước hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ hiện có đồng thời phát triển thêm các dịch vụ tài chính mới nhằm thực hiện công cuộc giảm đói nghèo và phát triển nông thôn.
Vì vậy, các tổ chức cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng đã nghiên cứu những sản phẩm dịch vụ phù hợp cho người nông dân như: các khoản cho vay đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển các sản phẩm nông nghiệp. Các sản phẩm tiết kiệm, các dịch vụ thanh toán…những sản phẩm và dịch vụ hiện đại đã được triển khai mạnh mẽ dựa trên nền tảng của công nghệ mới như các sản phẩm thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, các dịch vụ dựa trên hệ thống máy tính kết nối để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ gia đình khu vực nông thôn sẽ có cơ hội tiếp cận và mở rộng kiến thức quản lý, kiến thức thị trường. Việc phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên nền tảng công nghệ mới sẽ giảm chi phí giao dịch, giảm rủi ro cho các bên tham gia, tăng cơ hội đầu tư cho khu vực này.
.....