Khái Niệm, Đặc Điểm Và Vai Trò Của Đào Tạo, Bồi Dưỡng Đội Ngũ Cán Bộ , Công Chức

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC


2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức

2.1.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức

Khái niệm ĐTBD đội ngũ CBCC được hình thành từ nhiều thuật ngữ khác nhau. Vì vậy, để tìm hiểu khái niệm này, trước hết cần làm rò nội hàm một số thuật ngữ liên quan.

- Khái niệm cán bộ.

“Cán bộ” là từ có gốc Hán Việt có 2 nghĩa thông thường: nghĩa thứ nhất là cái khuôn, cái khung; nghĩa thứ hai là người nòng cốt, người chỉ huy. Khi được du nhập vào Lào và Việt Nam, khái niệm “cán bộ” được hiểu theo nhiều nghĩa ở những phạm vi khác nhau. Khi nói “cán bộ”, có thể hiểu đó là những người giữ những chức vụ nhất định trong các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị Lào (theo nghĩa hẹp) hoặc cũng có thể hiểu đó là tất cả những người đang công tác, làm việc trong các cơ quan, tổ chức của Đảng NDCM Lào, Nhà nước Lào, Mặt trận Lào xây dựng đất nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác.

Từ điển Hán Việt trích dẫn giải thích “cán bộ” là phần tử trung kiên của một chính đảng hoặc một đoàn thể.

Từ điển tiếng Việt giải thích: “Cán bộ là người làm việc trong cơ quan, đoàn thể, đảm nhiệm một công tác lãnh đạo, quản lý hoặc một công tác nghiệp vụ chuyên môn” [37, tr.180].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.

Luật Cán bộ, công chức năm 2008 của Việt Nam quy định: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,

tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [65]; “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội” [65].

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức ở tỉnh Savanakhet, nước cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào - 6

Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm “cán bộ”, mỗi một cách hiểu đều có những cơ sở thực tiễn nhất định, tạo nên tính đa dạng của khái niệm “cán bộ”.

Theo Luật Cán bộ, công chức của CHDCND Lào: Cán bộ là công dân Lào, giữ một chức vụ lãnh đạo, quản lý nhất định theo nhiệm kỳ do bầu cử, bổ nhiệm, phê chuẩn, làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức thuộc hệ thống chính trị nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [61].

- Khái niệm công chức

Khái niệm công chức có nguồn gốc từ quá trình phát triển ở các nước tư bản phương Tây, gắn liền với sự ra đời của chế độ công chức ở những quốc gia này vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Công chức được quan niệm là những công dân được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong công sở nhà nước ở trung ương hoặc địa phương, làm việc ở trong nước hoặc ngoài nước, đã được xếp vào một ngạch và được trả lương từ ngân sách nhà nước.

Ở Cộng hòa Pháp, công chức được hiểu là "những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc trong các công sở gồm các cơ quan hành chính công quyền và các tổ chức dịch vụ công cộng do nhà nước tổ chức, bao gồm cả trung ương và địa phương nhưng không kể đến những công chức địa phương thuộc các hội đồng địa phương quản lý” [5, tr.9].

Ở Trung Quốc, công chức được hiểu “là những người công tác trong cơ quan hành chính nhà nước các cấp, trừ nhân viên phục vụ” [34].

Ở Việt Nam, Luật Cán bộ, công chức quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [65]; “công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [65].

Theo Luật Cán bộ, công chức Lào: Công chức là công dân Lào, được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức thuộc hệ thống chính trị nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, đượ xếp vào một ngạch công chức, có tính chuyên nghiệp, mỗi ngạch gắn với những chức danh, tiêu chuẩn riêng, trong biên chế và được trả lương từ ngân sách nhà nước [61].

- Khái niệm đào tạo

Theo từ điển tiếng Việt, “đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực, có khả năng làm việc theo những tiêu chuẩn nhất định” [37, tr.470]. Đào tạo được xem là quá trình tác động đến con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách hệ thống, nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và nhận một sự phân công lao động nhất định.

Đào tạo được xác định như là quá trình làm biến đổi hành vi của con người một cách có hệ thống, thông qua việc học tập. Việc học tập này có

được là kết quả của việc giáo dục, hướng dẫn, phát triển và lĩnh hội kinh nghiệm một cách có kế hoạch.

Ủy ban Nhân lực Anh đã đưa ra định nghĩa: “Đào tạo được xác định là một quá trình có kế hoạch làm biến đổi thái độ, kiến thức, hoặc kỹ năng thông qua việc học tập, rèn luyện để làm việc có hiệu quả trong một hoạt động hay trong một loạt các hoạt động nào đó. Mục đích của nó, xét theo tình hình công tác ở cơ quan là phát triển nâng cao năng lực cá nhân và đáp ứng nhu cầu nhân lực hiện tại và tương lai của cơ quan [34].

- Khái niệm bồi dưỡng

Bồi dưỡng được hiểu là quá trình làm cho các cá nhân tăng thêm những năng lực, phẩm chất vốn có của mình để thực hiện tốt hơn các công việc được giao thực hiện. Bồi dưỡng không phải là trang bị những kiến thức mới, tri thức mới mà chỉ củng cố lại và phát triển những tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, phẩm chất của cá nhân đó trong từng giai đoạn.

Xét về mặt thời gian, đào tạo được tiến hành lâu dài hơn, thường là từ một năm trở lên trong khi đó thời gian bồi dưỡng có thể từ một hai ngày cho đến một vài tháng. Về bằng cấp, kết thúc quá trình đào tạo, học viên được cấp bằng tốt nghiệp, công nhận trình độ đã được đào tạo; còn trong các chương trình bồi dưỡng, khi kết thúc, học viên được nhận chứng chỉ bồi dưỡng về nội dung cụ thể được bồi dưỡng.

- Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng

Việc tách hai khái niệm “đào tạo” và “bồi dưỡng” trong phần này chỉ nhằm làm rò hơn nội hàm, đặc điểm và vai trò của hai hoạt động này. Tuy nhiên, cần có cách tiếp cận chung về thuật ngữ “đào tạo, bồi dưỡng”. Theo đó, ĐTBD được hiểu là một quá trình có kế hoạch làm biến đổi thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng thông qua việc học tập rèn luyện để làm việc có hiệu quả trong một hoạt động hay trong một loạt các hoạt động nào đó. Mục đích của

nó, xét theo tình hình công tác ở tổ chức, là phát triển nâng cao năng lực cá nhân và đáp ứng nhu cầu nhân lực hiện tại và tương lai của cơ quan.

ĐTBD chính là việc tổ chức những cơ hội cho người ta học tập, nhằm giúp tổ chức đạt được mục tiêu của mình bằng việc tăng cường năng lực, làm gia tăng giá trị của nguồn lực cơ bản quan trọng nhất là con người, là CBCC làm việc trong tổ chức. ĐTBD tác động đến con người trong tổ chức, làm cho họ có thể làm việc tốt hơn, cho phép họ sử dụng tốt hơn các khả năng, tiềm năng vốn có của họ, phát huy hết năng lực làm việc của họ. Với quan niệm như vậy thì ĐTBD CBCC nhằm tới các mục đích sau:

+ Phát triển năng lực làm việc của CBCC và nâng cao khả năng thực hiện công việc thực tế của họ.

+ Giúp CBCC luôn phát triển để có thể đáp ứng được nhu cầu nhân lực trong tương lai của tổ chức.

+ Giảm thời gian học tập, làm quen với công việc mới của CBCCdo thuyên chuyển, đề bạt, thay đổi nhiệm vụ và đảm bảo cho họ có đầy đủ khả năng làm việc một cách nhanh chóng và tiết kiệm.

Nhìn chung, ĐTBD là hoạt động nhằm trang bị, bổ sung, nâng cao kiến thức, kỹ năng liên quan đến công việc; thay đổi thái độ và hành vi; nâng cao hiệu quả thực hiện công việc; noàn thành những mục tiêu của cá nhân và của tổ chức.

Từ các thuật ngữ liên quan, có thể hiểu khái niệm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức như sau: Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức là một quá trình có kế hoạch làm biến đổi thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng của đội ngũ cán bộ, công chơcs thông qua việc học tập rèn luyện để thi hành các công vụ, nhiệm vụ được giao một cách có hiệu quả.

2.1.2. Đặc điểm của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức

Thứ nhất, hoạt động ĐTBD đội ngũ CBCC có tính chất bắt buộc theo quy định của pháp luật. ĐTBD là một trong những nội dung quan trọng của

hoạt động QLNN đối với đội ngũ CBCC, được đặt thành một nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong quá trình hoạt động của bộ máy chính trị.

Thứ hai, hoạt động ĐTBD đội ngũ CBCC phải được thực hiện đồng bộ, gắn với quy hoạch, kế hoạch cụ thể. Hoạt động QLNN đối với đội ngũ CBCC là mang tính thống nhất từ trung ương đến cơ sở nên nội dung ĐTBD cũng được thực hiện đồng bộ, thống nhất theo nguyên tắc trên nhằm hướng đến xây dựng những chuẩn mực chung, những tiêu chuẩn chung, những phẩm chất chung của đội ngũ CBCC.

Thứ ba, hoạt động ĐTBD đội ngũ CBCC phải gắn với ngạch bậc, vị trí công việc của CBCC. Nghĩa là, hoạt động ĐTBD phải chú trọng đến tính phù hợp khách quan với vị trí công việc, tính chất đặc thù nghề nghiệp và yêu cầu đặt ra đối với từng ngạch, bậc của đội ngũ CBCC.

Thứ tư, hoạt động ĐTBD đội ngũ CBCC phải đảm bảo tính chất toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng quản lý và năng lực hoạt động thực tiễn. Đây chính là mục tiêu to lớn của hoạt động ĐTBD nhằm xây dựng đội ngũ CBCC có chất lượng cao, có đầy đủ các phẩm chất, tiêu chuẩn.

Thứ năm, hoạt động ĐTBD vừa là quyền lợi vừa là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi CBCC. Quyền lợi thể hiện ở chỗ ĐTBD là một hình thức đãi ngộ đặc thù đối với CBCC, nguồn kinh phí dành cho CBCC tham gia hoạt động ĐTBD được đảm bảo từ nguồn ngân sách nhà nước mà CBCC không phải chi trả bất kỳ phần nào. Ngược lại, điều đó đặt ra nghĩa vụ bắt buộc đối với đội ngũ CBCC phải tham gia một cách hiệu quả hoạt động ĐTBD nhằm nâng cao năng lực công tác của mình, góp phần vào nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN, thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, tổ chức.

2.1.3. Vai trò của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức

Trong điều kiện hiện nay, hoạt động ĐTBD đội ngũ CBCC đóng vai trò quan trọng để nâng cao năng lực thực thi công vụ và nâng cao chất lượng đội

ngũ CBCC. Muốn vậy, cần xác định rò vai trò trong ĐTBD đội ngũ CBCC, cụ thể:

Thứ nhất, nâng cao hiệu quả thực thi công vụ. Trong quá trình làm việc, cùng với sự thay đổi ngày càng mạnh mẽ về yêu cầu chất lượng công việc; sự phát triển của khoa học, công nghệ,... đòi hỏi mỗi CBCC phải hoàn thiện bản thân, nâng cao lý luận chính trị, cập nhật tri thức mới và kỹ năng để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Thứ hai, nâng cao chất lượng CBCC. Mục đích của ĐTBD là nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực hiện có và nâng cao tính hiệu quả của tổ chức thông qua việc giúp CBCC hiểu rò, nắm vững hơn về công việc, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách tự giác với thái độ tốt hơn. Trong nền hành chính công vụ, nguồn nhân lực chính là công cụ để thực hiện các mục tiêu chức năng hành chính, do vậy năng lực, chất lượng của đội ngũ CBCC là một trong những điều kiện quan trọng, cần thiết để xây dựng nền hành chính hiệu lực, hiệu quả và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.

Thứ ba, quy hoạch, phát triển đội ngũ công chức, nhằm đáp ứng những thay đổi bên ngoài nền công vụ và sự đòi hỏi phát triển của tổ chức và cá nhân CBCC bên trong nền công vụ. Thông qua ĐTBD giúp cho tổ chức quy hoạch được nguồn CBCC, đảm bảo nguồn nhân lực có số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý.

Thứ tư, đánh giá nhân lực. CBCC được ĐTBD biết tiếp thu và vận dụng những kiến thức, kỹ năng được học vào công việc, làm cho chất lượng công việc được nâng lên, mang lại hiệu quả chung cho tổ chức và cá nhân. Thông qua ĐTBD đội ngũ CBCC người lãnh đạo và cơ quan chủ quản có thể đánh giá được sự tiến bộ, thái độ và hành vi của CBCC.

Tóm lại, CBCC đóng vai trò quyết định đến hiệu lực, hiệu quả QLNN. Trong những năm qua vấn đề đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC được đặc biệt chú trọng, vì thế chất lượng đội ngũ CBCC đã không ngừng

tăng lên đáp ứng nhu cầu phát triển của đời sống xã hội. Việc ĐTBD CBCC có vai trò hết sức quan trọng, thể hiện ở những khía cạnh sau đây:

Một là, trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp cho việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của CBCC.

Hai là, góp phần xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp có đủ năng lực để xây dựng nền hành chính tiên tiến, hiện đại.

Ba là, hoạt động ĐTBD nguồn nhân lực trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước là một công cụ của phát triển chức nghiệp. Với những vai trò chủ yếu sau: hoàn thiện chất lượng dịch vụ cung cấp cho công dân; tăng số lượng dịch vụ được cung cấp; giảm chi phí hoạt động; giảm những sai phạm không đáng có; tăng sự hài lòng của công dân với tổ chức nhà nước; tạo cho CBCC cập nhật kiến thức của bản thân, bồi dưỡng để CBCC thực thi tốt các văn bản pháp luật mới; cung cấp những kiến thức về công nghệ mới; học tiếng nước ngoài; tạo ra đội ngũ có chuyên môn, kỹ năng để thực thi công vụ tốt hơn, nhằm cải cải cách hành chính nhà nước phát triển năng lực để hoạch định và thực thi chính sách công; trung thành với Chính phủ trong việc thực thi chính sách; thực hiện dịch vụ định hướng khách hàng theo hệ thống tiêu chuẩn; áp dụng kỹ năng quản lý mới; hoàn thiện đạo đức công chức nhằm chống tham nhũng; tạo cơ hội để cơ cấu lại tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và nền hành chính nói riêng.

2.2. Nội dung, phương pháp và chủ thể của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức

2.2.1. Nội dung của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức

2.2.2.1. Xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng

Nhu cầu ĐTBD là những vấn đề đặt ra từ thực tiễn hoạt động của bộ máy chính trị, của việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, tổ chức và của mỗi CBCC trong bộ máy. Nhu cầu ĐTBD xuất phát từ thực

Xem tất cả 178 trang.

Ngày đăng: 14/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí