kém và trung bình. Bên cạnh đó, sự tạo điều kiện về thời gian và chi phí cho CC tham gia ĐTBD cũng chỉ được đánh giá ở mức trung bình. Điều này sẽ ảnh hưởng đến số lượng, động lực của CC tham gia ĐTBD.
Năm là, do những rào cản từ phía bản thân CC TĐKT. Khác với nhiều CC chuyên trách khác, CC TĐKT chủ yếu là kiêm nhiệm. Ngoài công tác TĐKT, CC còn phải làm những công việc chuyên trách, thường là công tác tổ chức cán bộ, công tác nội vụ, văn phòng (ở cấp tỉnh, cấp huyện) hoặc công tác văn phòng (ở cấp xã). Do đó, CC khó toàn tâm toàn ý cho công tác TĐKT. Do phụ trách các mảng công việc khác nhau, bị chi phối bởi yếu tố thời gian nên tác động đến quá trình tham gia hoạt động ĐTBD của CC. Bên cạnh đó, nhiều CC có tâm lý học vì bằng cấp, chứng chỉ, coi nhẹ việc học để chiếm lĩnh tri thức, nâng cao năng lực để phục vụ cho công việc.
Sáu là, thiếu sự kết hợp giữa cơ quan quản lý, sử dụng CC TĐKT với các cơ sở ĐTBD. Sự kết hợp này là cần thiết trong quá trình khảo sát nhu cầu, lập kế hoạch, tổ chức triển khai kế hoạch và nhất là đánh giá sau ĐTBD. Đây là cơ sở để các cơ quan quản lý, sử dụng CC nắm bắt xu hướng, các chương trình ĐTBD mà các cơ này có khả năng cung ứng và cung ứng tốt, trên cơ sở đánh giá năng lực hiện có của đội ngũ CC, các cơ quan quản lý, sử dụng CC có thể kết hợp với cơ sở ĐTBD để mở lớp hoặc cử CC tham gia ĐTBD. Trong quá trình ĐTBD, để đánh giá CC có nghiêm túc, tích cực trong ĐTBD hay không cũng cần sự trao đổi giữa hai bên này. Đặc biệt, hoạt động đánh giá sau ĐTBD chỉ có thể được tiến hành một cách bài bản, công phu và hiệu quả khi có sự kết hợp giữa các bên. Tuy nhiên, trong những năm qua, mặc dù liên tục được cải thiện nhưng sự kết hợp này vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Ngoài ra, một nguyên nhân khách quan khác dẫn đến những hạn chế trong hoạt động ĐTBD CC TĐKT là vị trí địa lý, điều kiện đi lại của nhiều CC còn nhiều khó khăn. Ở trên đã chỉ ra một trong những nguyên nhân của những thành quả tích cực về ĐTBD CC TĐKT trong giai đoạn 2015 - 2020 là do sự
có mặt ngày càng đông đảo của các cơ sở ĐTBD tại thành phố Buôn Ma Thuột, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Tuy nhiên vị trí địa lý không thuận lợi, cơ sở hạ tầng giao thông ở các địa phương của tỉnh Đắk Lắk còn hạn chế, đi lại khó khăn là một trong những rào cản đối với CC khi tham gia ĐTBD. Nhiều CC, nhất là CC ở các địa phương xa trung tâm, các huyện, các xã biên giới, điều kiện đi lại khó khăn, khiến họ không muốn tham gia ĐTBD thường được tổ chức tại trung tâm thành phố.
Tiểu kết chương 2
Ở chương 2 đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng ĐTBD CC TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thông qua việc thu thập thông tin, phân tích các số liệu, khảo sát, tổng hợp và đánh giá một cách khách quan về số lượng, quy trình, chất lượng ĐTBD CC TĐKT trong giai đoạn 2015 - 2020. Qua đánh giá chung có thể thấy, hoạt động ĐTBD CC TĐKT trên địa bàn tỉnh đã và đang có nhiều khởi sắc, ngày càng được chú trọng mở rộng. Điều đó được minh chứng bằng kết quả số lượng CC TĐKT tham gia ĐTBD có xu hướng tăng; quy trình mở và tổ chức lớp ngày càng được quan tâm; chất lượng các khóa ĐTBD ngày càng được cải thiện.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác ĐTBD CC TĐKT còn một số hạn chế, khó khăn. Những mặt hạn chế bộc lộ ở các mặt như chưa chú trọng đến năng lực thiếu hụt còn thiếu của CC để ĐTBD; chất lượng ĐTBD CC còn nhiều hạn chế, thể hiện ở tất cả các mặt như giảng viên, học viên, tài liệu, chương trình, cơ sở vật chất. Những yếu kém đó do cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan gây nên, song nó đã và đang ảnh hưởng đến hoạt động ĐTBD CC TĐKT trên địa bàn tỉnh. Với những kết quả đánh giá thực trạng ĐTBD CC TĐKT ở chương 2, cùng với cơ sở lý luận về ĐTBD CC TĐKT đã trình bày ở chương 1 chính là cơ sở để đề tài đề xuất các giải pháp cơ bản, thiết thực nhằm nâng cao chất lượng ĐTBD CC TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới ở chương 3.
Chương 3
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Hoạt Động Đào Tạo Bồi Dưỡng Công Chức Làm Công Tác Thi Đua Khen Thưởng Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk
- Kết Quả Khảo Sát Đánh Giá Chất Lượng Chương Trình Đtbd Cc Tđkt Tỉnh Đắk Lắk
- Đào tạo, bồi dưỡng công chức làm công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 9
- Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đào Tạo, Bồi Dưỡng Công Chức Làm Công Tác Thi Đua Khen Thưởng Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk
- Nâng Cao Chất Lượng Chương Trình, Tài Liệu Đào Tạo, Bồi Dưỡng
- Hoàn Thiện Hệ Thống Pháp Lý Về Đào Tạo, Bồi Dưỡng Công Chức Làm Công Tác Thi Đua Khen Thưởng
Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC LÀM CÔNG TÁC THI ĐUA KHEN THƯỞNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Định hướng đào tạo, bồi dưỡng công chức làm công tác thi đua, khen thưởng
Công tác ĐTBD TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk không nằm ngoài định hướng ĐTBD CC của Nhà nước nói chung cũng như của tỉnh nói riêng.
Để cải thiện năng lực thực thi công vụ của đội ngũ CBCC, Nhà nước rất coi trọng công tác ĐTBD. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X: “Đổi mới phương thức và nội dung các chương trình ĐTBD CBCC sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động của cơ quan hành chính” [2]. Đặc biệt, Quyết định số 163/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 25 tháng 01 năm 2016 phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng CBCCVC giai đoạn 2016 - 2025 đã nêu rõ yêu cầu, mục tiêu ĐTBD. Trong đó nhấn mạnh một số yêu cầu sau:
- ĐTBD CC phải hướng đến mục tiêu chung: Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả ĐTBD, góp phần xây dựng đội ngũ CC chuyên nghiệp, có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế [29].
Đất nước đang đứng trước nhiều vận hội mới, nhiều cơ hội nhưng cũng lắm thách thức. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình toàn cầu hóa đã và đang tác động ngày càng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội. Để giúp đất nước đi lên, nắm bắt thời cơ, hạn chế những thách thức, cần sự nỗ lực của tất cả các chủ thể trong xã hội, trong đó đội ngũ CBCC cần tiên phong, cải thiện năng lực, thích ứng với sự thay đổi,
tạo hành lang pháp lý, quản lý xã hội đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả. CC trong cả hệ thống chính trị, ở tất cả các ngành, lĩnh vực trong đó có CC TĐKT phải nâng cao năng lực, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn trong giai đoạn mới.
Nghị quyết trung ương 3 khóa VIII cũng khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong xây dựng Đảng” [1]. Vì vậy, phải thường xuyên chăm lo, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã xác định: “Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [3]. Như vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC có tầm quan trong đặc biệt, nó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, là nhiệm vụ, giải pháp cấp bách trong tình hình hiện nay, giúp cho đội ngũ CBCC tiếp tục đóng góp nhiều hơn nữa, hiệu quả hơn nữa, khẳng định vị thế quyết định sự thành công của cách mạng, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quán triệt quan điểm chung của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở quy hoạch nguồn nhân lực quốc gia, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số 1758/QĐ-BNV ngày 05/10/2011 về quy hoạch phát triển nhân lực ngành Nội vụ giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu là: “Xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, cơ cấu hợp lý, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ lý luận cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển ngành nội vụ, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội chung của đất nước và đáp ứng những đòi hỏi mới của quá trình hội nhập quốc tế”.
ĐTBD có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật những kiến thức cần thiết về quản lý nhà nước, cải
cách hành chính, kiến thức về hội nhập và kỹ năng thực thi công vụ để phục vụ yêu cầu của công dân, tổ chức ngày càng tốt hơn. Thông qua đó, giúp họ nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao, đồng thời hoàn thiện các tiêu chuẩn của ngạch và của từng vị trí chức danh đang đảm nhiệm. Thời gian qua, hoạt động ĐTBD đã được thực hiện tương đối tốt, song vẫn còn không ít những hạn chế cần được tiếp tục đổi mới, khắc phục, hướng tới mục tiêu xây dựng đội ngũ CBCC đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
- ĐTBD CC cần bảo đảm nâng cao năng lực, kỹ năng thực thi công vụ được giao; ý thức trách nhiệm, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; gắn ĐTBD với nhu cầu và quy hoạch sử dụng lâu dài.
Xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất, năng lực là chủ trương xuyên suốt quá trình lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Gần đây nhất, Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc [3].
Chất lượng của đội ngũ CC được tạo nên từ các yếu tố phẩm chất, năng lực, trình độ và hiệu quả thực thi công vụ. Phẩm chất là đạo đức, tư tưởng, bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp, là sự trung thành tận tụy với Đảng, Nhà nước, nhân dân. Năng lực, trình độ bao gồm: kiến thức, kỹ năng và thái độ để hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao. Hiệu quả thực thi công vụ, là sản phẩm cuối cùng được tạo ra bởi phẩm chất và năng lực trình độ của CBCCVC. Để đạt được mục tiêu và yêu cầu trên thì vai trò của ĐTBD là không thể xem nhẹ và phải thường xuyên đổi mới theo quan điểm của Đảng cũng như yêu cầu thực tiễn của đội ngũ CBCCVC.
Trong thời gian qua, việc ĐTBD CC nhìn chung vẫn còn nặng về lý thuyết, tính ứng dụng không cao, chưa chú trọng tính đặc thù riêng biệt của từng vị trí việc làm của CC. Nội dung và thời lượng khung cho các chương trình ĐTBD liên tục thay đổi và cải cách nhưng hiệu quả vẫn chưa cao, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn của từng ngành, từng địa phương (điều kiện đặc thù, tính chất, trình độ phát triển rất khác nhau), chưa đáp ứng yêu cầu từng vị trí việc làm của CC, trong đó có CC TĐKT, chưa chú ý BD về kỹ năng quản lý điều hành, tổ chức thực hiện, nhất là xử lý tình huống trong thực tiễn. Chính vì vậy, cần đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác ĐTBD chú trọng trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ công vụ, hướng tới việc nâng cao phẩm chất, năng lực, hiệu quả thực thi công vụ, khắc phục tình trạng hình thức, lãng phí.
- Tăng cường trách nhiệm và tạo điều kiện cho người đứng đầu cơ quan quản lý, người đứng đầu đơn vị sử dụng và bản thân CC tham gia hoạt động ĐTBD một cách tích cực.
Trên thực tế, một số cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa coi trọng đúng mức công tác ĐTBD, nâng cao chất lượng đội ngũ CC. CC chủ yếu vừa học vừa làm nên còn để công việc chi phối quá trình học tập, thời gian dành trọn vẹn cho việc học tập không nhiều. Có tình trạng CC không muốn đi học vì lo ngại đi học có thể bị sắp xếp, điều chuyển vị trí công tác khác không “hấp dẫn” bằng vị trí hiện tại. Một số cơ quan, lãnh đạo không tạo điều kiện cho CC tham gia ĐTBD. Nhiều CC ở vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, lớn tuổi có tâm lý ngại đi lại học tập trung. Công tác ĐTBD đã được cấp ủy quan tâm song vẫn
còn tình trạng chạy theo số lượng, bằng cấp, chưa cử đúng đối tượng đi ĐTBD, ĐTBD chưa đúng chuyên ngành cần ĐTBD, ĐTBD chưa gắn kết chặt chẽ với sử dụng, nhiều trường hợp được cử đi ĐTBD nhưng không bố trí công việc theo chuyên ngành ĐTBD sau khi tốt nghiệp, gây nên tâm lý thờ ơ với việc ĐTBD.
Do đó, Nhà nước đã đưa ra định hướng cần tăng cường trách nhiệm và tạo điều kiện cho người đứng đầu cơ quan quản lý, người đứng đầu đơn vị sử dụng và bản thân CC tham gia hoạt động ĐTBD một cách tích cực. Trong đó, cần xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện quy hoạch ĐTBD, cử CC tham gia ĐTBD và bố trí, sử dụng CC sau ĐTBD. Đồng thời cần tạo điều kiện về thời gian, hỗ trợ kinh phí cho CC tham gia ĐTBD một cách tập trung.
Ngoài ra, còn các định hướng lớn khác như xây dựng hệ thống cơ sở ĐTBD phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; thu hút và tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo, nghiên cứu có đủ năng lực tham gia ĐTBD CC; có cơ chế khuyến khích CBCC nữ, người dân tộc thiểu số; CBCCVC công tác tại vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn học tập nâng cao trình độ, năng lực làm việc [26].
Quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoạt động ĐTBD CBCC, tỉnh Đắk Lắk chủ trương đẩy mạnh ĐTBD CC nhằm nâng cao năng lực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tỉnh Đắk Lắk tuân thủ đầy đủ định hướng ĐTBD CC của Nhà nước nói chung. Bên cạnh đó, chính quyền tỉnh chủ trương xây dựng, nâng cao năng lực CC: “Tập trung phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hội nhập quốc tế và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương. Thực hiện có hiệu quả sáng tạo các nghị quyết của Trung ương về công tác tổ chức cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức “vừa hồng vừa chuyên”; đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ từ quy hoạch, ĐTBD,