Phương Pháp Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư [15],[16], [21]

33

- Theo phương pháp chủ quan, người ta phân loại dự án đầu tư theo mức độ mạo hiểm và nhà thẩm định ấn định một tỷ lệ chiết khấu tương xứng với mức độ mạo hiểm của từng dự án theo nguyên tắc đã nêu trên là mức độ mạo hiểm của dự án càng lớn thì tỷ lệ chiết khấu càng cao. Và để thuận lợi trong cách làm, thì thông thường trước hết nhà thẩm định phải xác định tỷ lệ chiết khấu tương xứng cho dự án an toàn là bao nhiêu, tiếp đến tùy vào mức độ mạo hiểm của dự án mà cộng thêm một tỷ lệ bù rủi ro cần thiết để có tỷ lệ chiết khấu đầy đủ. Rõ ràng việc xác định tỷ lệ chiết khấu tương xứng cho dự án an toàn cũng như tỷ lệ bù rủi ro cho mức độ mạo hiểm ở đây là hoàn toàn mang tính chủ quan, tùy thuộc nhiều vào quan điểm, kinh nghiệm và bản lĩnh của nhà thẩm định.

- Theo phương pháp khách quan, người ta dựa vào xác suất xuất hiện rủi ro để điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu, và tỷ lệ chiết khấu đầy đủ được xác định theo công thức :


Rđ =

R


1 - q


Trong đó : Rđ là tỷ lệ chiết khấu đầy đủ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 272 trang tài liệu này.

R là chi phí sử dụng vốn bình quân q là xác suất của rủi ro

Xác suất của rủi ro thường được xác định theo phương pháp chọn mẫu điển hình của thống kê. Chẳng hạn, một công ty liên doanh khai thác khoáng sản, tiến hành lấy mẫu thăm dò ở một khu vực X. Kết quả trong 100 mẫu lấy về người ta nhận thấy 40 mẫu đạt hàm lượng khoáng sản có thể khia thác được . Như vậy, xác suất của rủi ro thị trường trong trường hợp này là 60%. Nếu chi phí sử dụng vốn bình quân của công ty là 7% thì tỷ lệ chiết khấu đầy đủ là : R = 7%/(1-0.6) = 17.5% Tóm lại, do bản chất như vậy nên phương pháp điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu dựa vào mức rủi ro dự kiến được coi như là một phương pháp đơn giản và dễ hiểu nhất.

Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam (Lấy thực tế từ Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam) - 6

Phương pháp phân tích độ lệch chuẩn :

Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của dự án là một tính toán cho tương lai, mà tương lai thường không chắc chắn. Thời gian càng dài thì tính hiện thực càng kém, do vậy độ mạo hiểm của dự án được thể hiện ở sự biến động của các chỉ tiêu hiệu quả. Vì vậy, theo phương pháp điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu thì tỷ lệ chiết khấu được cộng thêm một lượng dự phòng bù đắp rủi ro, còn đối với phương pháp độ lệch chuẩn thì tỷ lệ chiết khấu được giữ nguyên và người ta chỉ xác định độ biến động

34

của các chỉ tiêu hiệu quả mà dự án mang lại trong tương lai. Độ biến động được thể hiện qua độ lệch chuẩn và phản ánh sự mạo hiểm của dự án đầu tư. Về tổng quát, quy trình áp dụng phương pháp độ lệch chuẩn gồm các bước sau :

Bước 1 : Xác định các chỉ tiêu hiệu quả ở các mức độ khác nhau Bước 2 : Xác định xác suất ở các mức độ khác nhau đó

Bước 3 : Tính kỳ vọng toàn bộ của các chủ tiêu hiệu quả

Bước 4 : Tính độ lệch chuẩn để xác định độ mạo hiểm của dự án. Các chỉ tiêu dùng trong phân tích thường là NPV, IRR…

Kết luận : Độ lệch chuẩn càng nhỏ thì mức độ an toàn càng cao và ngược lại. Kỳ vọng của các chỉ tiêu hiệu quả được xác định theo công thức :


n

I=1

R = (Ri x Pi )


Độ lệch chuẩn theo công thức :


= (Ri - R )2x Pi

Trong đó: i là các tình huống (i = 1,2,3,….n) n là số tình huống có thể xảy ra

Ri là trị số chỉ tiêu hiệu quả đang tính ở tình huống i Pi là xác suất xảy ra tình huống i

R là kỳ vọng của chỉ tiêu đang tính

là độ lệch chuẩn của chỉ tiêu đang tính

Sau khi tính được kỳ vọng toán học R và độ lệch chuẩn , người ta thường đem so sánh các trị số định chuẩn R,  để biết được có an toàn hay không. Trong nhiều trường hợp, khi thẩm định các dự án thuộc loại loại trừ lẫn nhau, nhưng lại có độ lệch chuẩn bằng nhau thì người ta phải dựa vào hệ số biến động để đánh giá sự an toàn của dự án. Hệ số biến động được xác định theo công thức:


H =

R

Trong đó: là độ lệch chuẩn

35

R là kỳ vọng (giá trị trung bình) của chỉ tiêu hiệu quả H là hệ số biến động

Dự án nào có H nhỏ hơn thì mức độ mạo hiểm ít hơn

Phương pháp phân tích tình huống (Scenario Analysis)

Mặc dù phân tích độ nhạy là kỹ thuật phân tích rủi ro khá phổ biến, tuy nhiên nó cũng có những hạn chế như đã phân tích ở trên. Do đó trong thẩm định rủi ro của dự án người ta còn sử dụng phương pháp phân tích tình huống. Đây là phương pháp phân tích kết hợp cả hai nhân tố là tính đến xác suất xảy ra của các biến rủi ro và sự tác động của chính biến đó đối với dự án. Trong sự phân tích này đòi hỏi phải xem xét cả một tập hợp những tình huống tài chính tốt và xấu từ đó so sánh với các giá trị cơ sở. Tuy nhiên phương pháp phân tích này vẫn tồn tại một số hạn chế như : không thể xác định được tất cả các trường hợp kết hợp lẫn nhau của các yếu tố và chỉ phân tích được một vài khả năng (biến cố) rời rạc trong khi thực tế có thể có vô số khả năng kết hợp có thể xảy ra giữa các biến cố của dự án.

Phương pháp phân tích Monter Carlo

Phương pháp phân tích này có tính đến xác suất và mối tương quan đồng thời nhận biết tác động có thể có của một biến cố đến kết quả của dự án. Nó cũng có thể xem xét đến sự trì hoãn hoặc các sự kiện khác có động chạm đến kết quả dự án. Quan trọng hơn là nó giúp cho việc đánh giá giá trị hiện tại ròng của dự án, phân phối xác suất của kết quả và xác suất dự án thất bại. Và bằng cách xếp hạng các biến cố theo tác động của chúng đến kết quả dự án và xác suất xảy ra, phương pháp phân tích Monter Carlo giúp cho các nhà tài chính phân tích dự án được tốt hơn và nhận diện được các biến cố cần phải theo dõi trong quá trình vận hành dự án. Ngày nay, với sự phát triển và ứng dụng của công nghệ tin học trong Ngân hàng, kỹ thuật phân tích Monter carlo rất tiện sử dụng dự án dưới dạng các bảng tính và trở thành công cụ phân tích rủi ro được ưa chuộng của nhiều Ngân hàng trên thế giới.

1.3.2.3. Phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư [15],[16], [21]

Tùy thuộc vào nội dung thẩm định và yêu cầu đặt ra đối với việc phân tích dự án mà sử dụng các phương pháp thẩm định khác nhau. Việc vận dụng các phương pháp nào và hiệu quả vận dụng đến đâu lại phụ thuộc vào trình độ và khả năng của đội ngũ cán bộ thẩm định của mỗi Ngân hàng. Tuy nhiên, khi xem xét các phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư nói chung thì người ta có thể chia thành 2 nhóm phương pháp chung và phương pháp cụ thể:

Phương pháp chung để thẩm định tài chính dự án đầu tư là tiến hành so sánh,

36

đối chiếu nội dung dự án với các chuẩn mực đã được quy định bởi pháp luật và các tiêu chuẩn kinh tế tài chính kỹ thuật thích hợp hoặc các thông lệ quốc tế cũng như các kinh nghiệm thực tế. Tùy theo nội dung và yêu cầu đối với mỗi dự án mà có các phương pháp thẩm định thích hợp, ngoại trừ các nội dung có quy định pháp luật.

Các phương pháp thẩm định tài chính dự án cụ thể: Trong thực tế có nhiều phương pháp thẩm định tùy thuộc vào từng nội dung thẩm định cụ thể. Xem xét một cách khái quát thì có 4 phương pháp chủ yếu được áp dụng trong quá trình thẩm định dự án. Bao gồm:

Phương pháp 1: So sánh các chỉ tiêu

Đây là phương pháp phổ biến rất hay dùng trong thẩm định. Các chỉ tiêu của dự án được đưa ra so sánh với các quy định, các tiêu chuẩn, định mức, các dự án đã và đang hoạt động. Sử dụng phương pháp này giúp cho việc đánh giá tính hợp lý và chính xác về các chỉ tiêu của dự án. Trên cơ sở đó có thể rút ra các kết luận đúng đắn về dự án, là cơ sở để ra quyết định đầu tư. Sử dụng phương pháp này các chỉ tiêu được so sánh với các tiêu chuẩn về thiết kế, xây dựng, về sản phẩm của dự án mà thị trường đòi hỏi, với các định mức tiêu hao nguyên liệu, nhân công, tiền lương, chi phí quản lý.... của ngành theo định mức kinh tế kỹ thuật chính thức hoặc các chỉ tiêu về các tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp theo thông lệ phù hợp với sự hướng dẫn và chỉ đạo của Nhà nước, của ngành. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng phương pháp này, cán bộ thẩm định của Ngân hàng cần lưu ý: các chỉ tiêu dùng để so sánh phải được vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của dự án và của chủ đầu tư, tránh khuynh hướng so sánh cứng nhắc và máy móc.

Phương pháp 2: Phân tích độ nhạy của dự án

Phương pháp này thường được các Ngân hàng áp dụng đối với các dự án lớn, phức tạp. Đây là một phương pháp hiện đại được áp dụng phổ biến trong thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các NHTM. Mục đích khi sử dụng phương pháp này là nhằm tìm ra những yếu tố nhạy cảm, có ảnh hưởng đến các chỉ tiêu của dự án chủ yếu là các chỉ tiêu tài chính hay là những bất trắc có thể xảy ra trong tương lai đối với những dự án vượt chi phí đầu tư, sản lượng đạt thấp, giá các nguyên vật liệu đầu vào lại tăng, sản phẩm khó tiêu thụ mà nhu cầu thị trường lại giảm hoặc có thể thay đổi chính sách của Nhà nước theo hướng bất lợi cho dự án. Sử dụng phương pháp này để kiểm tra tính vững chắc về hiệu quả tài chính của dự án khi có những tình huống bất lợi có thể xảy ra. Sau đó, khảo sát sự thay đổi hiệu quả của dự án thông qua các chỉ tiêu chủ yếu như NPV (Giá trị hiện tại ròng – Net Present Value), IRR

37

(Tỷ suất hoàn vốn nội bộ - Internal Rate of Return), MIRR (Tỷ suất hoàn vốn nội bộ có điều chỉnh – Modifited Internal Rate of Return), PP (Thời gian thù hồi vốn – Payback of Period), PI (Chỉ số doanh lợi – Profitability Index), BEP (Điểm hòa vốn

– Break Event Point).... Từ đó có thể kết luận được về tính vững chắc và ổn định của dự án, làm cơ sở cho việc đề xuất những biện pháp quản lý và phòng ngừa rủi ro nhằm đảm bảo tính khả thi của dự án [21].

Phương pháp 3: Dự báo thông qua sử dụng các mô hình

Phương pháp này sử dụng các số liệu dự báo, điều tra thống kê để kiểm tra cung cầu về sản phẩm của dự án trên thị trường, giá cả, chất lượng công nghệ, thiết bị, nguyên vật liệu.... có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, tính khả thi của dự án. Để sử dụng tốt phương pháp này, yêu cầu những cán bộ thẩm định phải có kỹ năng tổng hợp (tổng hợp các số liệu từ điều tra trực tiếp, gián tiếp hoặc thông qua các thông tin đã thu thập trên báo chí , tạp chí, Internet, hội thảo, đề án phát triển ngành, quy hoạch địa phương...) sau đó phải biết sử dụng các mô hình toán thống kê để dự báo (mô hình SPSS, mô hình EVIEWS, mô hình ANOVA...). Phương pháp này nếu được sử dụng tốt sẽ nâng cao mức độ chuẩn xác của các kết quả đã tính toán. Phương pháp dự báo có thể áp dụng tương tự như phương pháp phân tích độ nhạy tuy nhiên các số liệu trong phân tích độ nhạy được giả định trên cơ sở chủ quan thì các số liệu sử dụng trong phương pháp dự báo lại là khách quan.

Phương pháp 4: Phân tích rủi ro

Vì quá trình hình thành và thực hiện dự án đầu tư thường rất dài, trong khi đó các dự án lại được xây dựng trên cơ sở các dữ liệu giả định cho tương lai, do vậy việc triển khai thực hiện sau này của dự án (ngay cả dự án đi vào khai thác) có thể phát sinh nhiều rủi ro không lường trước được. Vì vậy, trong quá trình thẩm định dự án cần phải xem xét những rủi ro có thể xảy ra, đây được xem là những nhân tố có ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án. Trong trường hợp rủi ro phát sinh mà dự án vẫn có hiệu quả thì cho thấy dự án có độ an toàn cao và ngược lại cần phải có những biện pháp phòng ngừa rủi ro thích hợp, hạn chế thấp nhất tác động của các rủi ro hoặc phân tán rủi ro cho các đối tác có liên quan đến dự án.

Tóm lại, tùy thuộc vào khả năng của các cán bộ thẩm định của Ngân hàng cũng như yêu cầu của dự án mà sử dụng phương pháp nào cho phù hợp. Trên thực tế, các dự án đầu tư được thẩm định dựa trên sự kết hợp của hai hay nhiều phương pháp. Việc kết hợp các phương pháp sẽ góp phần bổ sung và hoàn thiện cho việc thẩm định dự án được toàn diện, tăng độ tin cậy của các kết quả tính toán. Phương

38

pháp truyền thống thường được áp dụng với cách làm đơn giản mang lại kết quả nhanh chóng, song mức độ chính xác chưa cao. Còn đối với các phương pháp hiện đại việc vận dụng đòi hỏi phải có kỹ năng mất nhiều thời gian nhưng lại cho kết quả với độ chính xác cao hơn.

1.4. Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại

1.4.1. Khái niệm về chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư

Nhìn chung việc thẩm định một dự án được coi là có chất lượng khi việc thẩm định đó đạt được các mục tiêu thẩm định của Ngân hàng đồng thời thỏa mãn được yêu cầu của doanh nghiệp .

Mục tiêu thẩm định của các NHTM là đưa ra một kết luận chính xác và khách quan về tính khả thi của dự án đầu tư làm cơ sở để Ngân hàng quyết định có cho vay hay không, và tránh những rủi ro cho Ngân hàng khi tiến hành cho vay, đồng thời cũng không bỏ qua các dự án có khả năng sinh lời đem lại thu nhập cho Ngân hàng. Việc thẩm định tài chính dự án được Ngân hàng coi là có chất lượng khi kết quả thẩm định đó giúp Ngân hàng có quyết định đúng đắn về việc có nên cho vay hay không, nếu có thì cho vay bao nhiêu, thời gian và lãi suất như thế nào…. Ngược lại chất lượng thẩm định sẽ bị coi là kém nếu việc thẩm định dẫn đến quyết định sai lầm của Ngân hàng như cho vay một dự án kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ, khó khăn khi thu hồi nợ gốc, hoặc quyết định từ chối cho vay một dự án rất hiệu quả khiến Ngân hàng mất đi một cơ hội kinh doanh tốt, mất đi một mối quan hệ với doanh nghiệp và làm giảm uy tín của Ngân hàng.

Từ sự phân tích trên ta có thể hiểu khái quát khái niệm chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư theo quan điểm của chủ đầu tư (doanh nghiệp) và của Ngân hàng như sau:

Theo quan điểm của chủ đầu tư thì chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là biểu hiện mức độ chính xác, khách quan và hợp lý trong việc đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư [16, tr46].

Dưới góc độ Ngân hàng thì chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là việc xem xét dự án đó có đáp ứng tốt nhất những yêu cầu của Ngân hàng [21,tr62] thông qua các chỉ tiêu như quy trình thẩm định có khoa học và toàn diện không, thời gian thẩm định nhanh hay chậm, chi phí thẩm định cao hay thấp, việc lựa chọn phương pháp thẩm định có phù hợp với dự án không.....

39

1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại [37], [55]

Thẩm định dự án đầu tư là giai đoạn thứ 2 trong quy trình cấp tín dụng của NHTM, tuy nhiên nếu thẩm định không tốt sẽ mang lại hậu quả nghiêm trọng cho Ngân hàng. Vì thế công tác thẩm định được coi như là một trong những nguyên nhân cơ bản gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng. Khi thẩm định dự án đầu tư các NHTM sẽ phải tiến hành thẩm định trên các khía cạnh: pháp lý, thị trường, kinh tế, tài chính và khoa học công nghệ…. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài nghiên cứu tác giả chỉ đề cập đến khía cạnh về mặt tài chính, do vậy để đánh giá chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thì các NHTM thường sử dụng các chỉ tiêu:

1.4.2.1. Các chỉ tiêu định tính

Là các chỉ tiêu không thể tính toán cũng như xác định một cách chính xác được song lại mang một ý nghĩa hết sức quan trọng để đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Đó là:

Thứ nhất là mức độ khoa học, chính xác, toàn diện và sâu sắc của các kết quả thẩm định tài chính dự án đầu tư trên các phương diện phân tích kế hoạch vốn đầu tư, nguồn trả nợ, dòng tiền của dự án, các chỉ tiêu hiệu quả tài chính, khả năng trả nợ, mức độ rủi ro của dự án và vai trò của các kết quả đó với việc đưa ra quyết định đúng đắn của Ngân hàng.

Thứ hai là sự phù hợp của các dự đoán so với thực tế khi dự án được thực hiện. Ta có thể đánh giá sự phù hợp này trên các phương diện như: số vốn thực tế đã bỏ ra so với tổng vốn đầu tư dự tính, khả năng tiêu thụ sản phẩm do dự án sản xuất ra, giá bán dự tính so với giá bán thực tế, chi phí dự tính so với chi phí thực tế, kế hoạch rả nợ Ngân hàng có đúng thời hạn không. Nếu như các dự tính của Ngân hàng mà sát với thực tế thì có nghĩa là công tác thẩm định dự án có chất lượng, quyết định cho vay của Ngân hàng là chính xác, có khả năng thu hồi được cả vốn và lãi.

Thứ ba là mức độ đầy đủ, chính xác của thông tin thu thập phục vụ cho công tác thẩm định dự án. Mức độ đầy đủ chính xác của thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thẩm định dự án. Các kết quả thẩm định tài chính dự án chỉ đúng đắn chính xác khi thông tin sử dụng trong công tác thẩm định là đầy đủ và tin cậy. Khi đó Ngân hàng sẽ đưa ra kết luận chính xác về dự án để ra quyết định cho vay hay không cho vay. Còn nếu các thông tin thu thập không đầy đủ thiếu chính xác sẽ dẫn tới sai lầm trong việc ra quyết định của Ngân hàng. Ngân hàng có thể bỏ lỡ cơ hội

40

đầu tư tốt hoặc trong trường hợp xấu là cho vay các dự án không có khả năng trả nợ, làm phát sinh các khoản nợ khó đòi, gây ảnh hưởng xấu tới kết quả hoạt động của Ngân hàng. Như vậy là chất lượng thông tin có mối liên hệ mật thiết với chất lượng thẩm định dự án đầu tư..

Thứ tư là mức độ thực hiện các quy định, chế độ về thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của các NHTM và của Ngân hàng Nhà nước ban hành. Việc tuân thủ các quy định, chế độ này sẽ giúp cho việc thẩm định tài chính dự án được tiến hành chặt chẽ hơn và chính xác hơn, giúp nâng cao được chất lượng cho vay theo dự án đầu tư.

Thứ năm là sự phù hợp của công tác tổ chức bộ máy thẩm định với hoạt động của Ngân hàng . Hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư có mối liên hệ mật thiết với hoạt động cho vay trung dài hạn của Ngân hàng. Hoạt động thẩm định dự án phải phù hợp với định hướng hoạt động chung của Ngân hàng và đặc biệt phải phù hợp với định hướng cho vay trung dài hạn. Đồng thời, hoạt động thẩm định dự án cũng phải hỗ trợ tích cực các hoạt động khác của Ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu như tăng trưởng dư nợ, thay đổi cơ cấu dư nợ.

Thứ sáu là chất lượng báo cáo thẩm định: báo cáo thẩm định là văn bản tổng kết toàn bộ kết quả cuối cùng của quá trình thẩm định dự án. Báo cáo thẩm định là căn cứ hàng đầu để Ngân hàng ra quyết định cho vay, là cơ sở để tiến hành tái thẩm định, do đó nó có vai trò rất quan trọng. Hơn nữa, vì là sự tổng kết của toàn bộ quá trình thẩm định nên báo cáo thẩm định thể hiện chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Bản báo cáo thẩm định có chất lượng tốt phải đạt yêu cầu trình bày khoa học đầy đủ, chính xác và khách quan, sát với thực tế dự án đi vào hoạt động. Báo cáo thẩm định tốt phải giúp người đọc nắm bắt được những thông tin cơ bản nhất về hiệu quả tài chính của dự án, phải thể hiện được các quyết định và chứng minh được tính hợp lý của quyết định tài trợ dự án.

Thứ bảy là chất lượng của quyết định cho vay: vì mục tiêu cuối cùng của thẩm dịnh tài chính dự án là để Ngân hàng đưa ra các quyết định cho vay một cách hợp lý nên chất lượng các quyết định cho vay cũng phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án. Chất lượng của quyết định cho vay thể hiện thông qua hiệu quả hoạt động của các dự án mà Ngân hàng tài trợ và kết quả của hoạt dộng cho vay dự án đó.

Khi bỏ vốn tài trợ cho dự án, Ngân hàng bao giờ cũng mong muốn dự án hoạt động có hiệu quả để đảm bảo thu hồi được cả vốn lẫn lãi. Thẩm định tài chính dự án là căn cứ quan trọng nhất để Ngân hàng đưa ra quyết định cho vay hay không. Điều

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/04/2022