DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 3.1 Sơ đồ nghiên cứu… 22
Bảng 4.1 Đặc điểm về giới tính của bệnh nhân trong nghiên cứu 23
Bảng 4.2 Đặc điểm về tuổi của bệnh nhân trong nghiên cứu 23
Bảng 4.3 Đặc điểm về da mặt của bệnh nhân 24
Bảng 4.4 Tình trạng da mặt hiện tại của bệnh nhân 25
Bảng 4.5 Bảng thể hiện thời gian sử dụng kem (mỹ phẩm) của bệnh nhân 27
Bảng 4.6 Tình trạng da mặt bệnh nhân trước khi sử dụng mỹ phẩm 27
Bảng 4.7 Bảng thể hiện tên các loại kem (mỹ phẩm) và thành phần corticoid nghi ngờ có trong mẫu kem (mỹ phẩm) 29
Có thể bạn quan tâm!
- Khảo sát ảnh hưởng mỹ phẩm có corticoid trên những bệnh nhân bị mụn trứng cá tại thành phố Cần Thơ - 1
- Rối Loạn Bong Sừng (Sự Sừng Hoá Bất Thường Ở Lỗ Chân Lông)
- Thiết Kế Nghiên Cứu: Phương Pháp Mô Tả Cắt Ngang Phân Tích
- Tên Mỹ Phẩm Nghi Ngờ Có Corticoid Do Bệnh Nhân Cung Cấp
Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.
Bảng 4.8 Bảng thể hiện mục đích sử dụng kem (mỹ phẩm) của bệnh nhân 32
Bảng 4.9 Bảng thể hiện thói quen sử dụng kem (mỹ phẩm) của bệnh nhân 32
Bảng 4.10 Bảng thể hiện cách thức tiếp nhận các loại mỹ phẩm của bệnh nhân 33
Bảng 4.11 Bảng thể hiện việc tiếp tục và ngừng sử dụng mỹ phẩm của bệnh nhân 34
Bảng 4.12 Bảng nêu rõ lý do không sử dụng mỹ phẩm… 34
Bảng 4.13 Bảng thể hiện tình hình bệnh nhân sử dụng lại mỹ phẩm sau thời gian ngừng không sử dụng 35
Bảng 4.14 Bảng thể hiện tình hình của bệnh nhân khi ngừng hẳn mỹ phẩm vì xuất hiện dị ứng và mụn ngay lần đầu sử dụng 35
Bảng 4.15 Bảng thể hiện tình hình điều trị mụn của các bệnh nhân 36
Bảng 4.16 Bảng thể hiện tình trạng mụn trên da mặt của bệnh nhân đang điều trị bằng các cách khác nhau 37
Bảng 4.16 Bảng 4.17 Bảng thể hiện sự tương quan giữa mỹ phẩm chứa corticoid và mức độ bệnh 38
DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1 Cấu tạo của da… 3
Hình 2.2 Cấu trúc của corticoid… 10
Hình 2.3 Tình trạng da của bệnh nhân tại thời điểm khảo sát 25-26
Hình 2.4 Bản sắc kí lớp mỏng của những mỹ phẩm chứa corticoid 30-31
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, mọi người đang hướng đến việc làm cho bản thân hoàn mỹ hơn, nhu cầu làm đẹp đang rất được quan tâm kéo theo đó là hàng loạt các loại mỹ phẩm ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu chung của khách hàng. Theo quan niệm từ xưa đến nay “nhất dáng, nhì da”, nên ai cũng mong mình sở hữu làn da trắng sáng và vẻ bề ngoài bắt mắt, nắm được tầm quan trọng đó nên hàng loạt các loại mỹ phẩm trị mụn, trắng da liên tục ra đời, nhưng chiếm đa số là những loại mỹ phẩm không có nguồn gốc rõ ràng.
Riêng các tỉnh miền Nam ở Việt Nam thì việc sử dụng mỹ phẩm chứa corticoid hiện đang rất phổ biến, chỉ cần sau khi sử dụng và trong thời gian ngắn đã có tác dụng rõ rệt thì xem như loại mỹ phẩm đó được tin dùng và truyền tai nhau rất nhanh chóng. Các sản phẩm đó không còn xa lạ và được mọi người nói gọn lại là kem trộn, kem trộn chính là hỗn hợp nhiều loại mỹ phẩm và đặc biệt là chứa thêm thành phần được ví như thần dược làm đẹp đó chính là corticoid.
Vấn đề sử dụng mỹ phẩm có chứa corticoid phục vụ cho vấn đề làm đẹp không chỉ xảy ra ở nước ta mà còn xảy ra ở các nước trên thế giới. Việc làm đẹp là nhu cầu cần thiết của mỗi người dù là ở các nước phát triển và đang phát triển. Cụ thể theo Cunliffe W J (1999): Có gần 1/3 phụ nữ Mỹ trong độ tuổi 20-50, đặc biệt giữa tuổi 20- 30 có xuất hiện mụn mủ và có liên quan đến việc sử dụng mỹ phẩm. Cho thấy được rằng trên thế giới việc lạm dụng corticoid nhằm mục đích làm đẹp cũng thường xuyên được đề cập và nghiên cứu.
Thực tế tại Việt Nam corticoid vẫn được sử dụng trong các cơ sở y tế và phải sử dụng theo sự chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa hoặc những người có chuyên môn. Đa số những trường hợp tìm đến các cơ sở điều trị da liễu thì da mặt của bệnh nhân đã có tổn thương trong đó có những tổn thương có thể hồi phục được và có những tổn thương không còn khả năng hồi phục. Việc sử dụng tràn lan mỹ phẩm chứa corticoid chủ yếu do một phần người sử dụng hiểu biết ít về corticoid hoặc được bạn bè, người thân giới thiệu. Sau khi sử dụng thấy có tác dụng rõ rệt trong thời gian ngắn thì lại tiếp tục truyền tai cho những người khác. Mặc khác ít người biết rằng trong vài lần đầu sử dụng mỹ phẩm chứa corticoid sẽ có công hiệu tạm thời nhưng sau đó là sự xuất hiện và hàng loạt những biểu hiện bất lợi (Theo Đỗ Đình Dịch,1983 và Thomas P.Habif,1985). Khi sử dụng mỹ phẩm có chứa corticoid trong thời gian lâu sẽ có hiện tượng teo da, rạn da, nhiễm trùng da, Và thường gặp nhất là xuất hiện hiện tượng phát ban dạng trứng cá đỏ (Theo Bert-Jones J,2010).
Do vậy chúng ta nên khảo sát tình hình thực tế trên các bệnh nhân trứng cá tại thành phố Cần Thơ qua đó tiến hành thu thập những hình ảnh về tình trạng của các
bệnh nhân sau khi bị ảnh hưởng của tác dụng phụ của corticoid, kế đó là thu thập những loại mỹ phẩm do bệnh nhân bị mụn trứng cá cung cấp, cuối cùng là định tính mỹ phẩm để xác định có bao nhiêu loại mỹ phẩm do bệnh nhân cung cấp có chứa corticoid bằng phương pháp sắc kí lớp mỏng. Để cảnh báo và làm tăng sự hiểu biết cho mọi người về tác dụng 2 mặt của mỹ phẩm chứa corticoid bằng hình ảnh thực tế.
Với lý do trên đề tài “Khảo sát ảnh hưởng mỹ phẩm có corticoid trên những bệnh nhân bị mụn trứng cá tại thành phố Cần Thơ” được thực hiện với mục tiêu cụ thể như sau:
Khảo sát những ảnh hưởng của mỹ phẩm chứa corticoid qua những biểu hiện lâm sàng trên bệnh nhân trứng cá.
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. TỔNG QUAN VỀ DA
Da là cơ quan của hệ bài tiết, có nhiệm vụ bao bọc cơ thể, che chở cơ thể khỏi sự tác động, sự ảnh hưởng không có lợi của môi trường bên ngoài đối với cơ thể. Ngoài ra, chức năng chính của da còn để điều hòa, cảm nhận nhiệt độ, tổng hợp vitamin B và
D. Da là một cơ quan lớn nhất của cơ thể. Da người lớn có độ dày từ 1,5 - 4 mm; diện tích 1,5 m2 – 2 m2. Một người trưởng thành nặng 60kg thì trọng lượng của da khoảng 4 kg. Nếu tính cả hạ bì và mô mỡ trọng lượng da khoảng 15 kg. (Phạm Văn Hiển, 2009)
Da người có cấu tạo gồm ba lớp: Lớp thượng bì, lớp trung bì và lớp hạ bì.
Hình 2.1 Cấu tạo của da (Nguyễn Như Hiền và Chu Văn Mẫn, 2002)
2.1.1 Lớp thượng bì (epidermis)
Vùng biểu bì: chỉ dày vài milimeter. Được chia làm 4 lớp nhỏ:
Lớp corneum: là nơi các tế bào hoá sừng. Lớp sừng này mất đi hóc môn và chết đi. Tác dụng của nó là bảo vệ cơ thể và ngăn thoát hơi nước. Mặc dù có tác dụng là lớp bảo vệ bên ngoài, nhưng nó cũng chính là nguyên nhân cản trở quá trình trao đổi chất và hấp thụ chất dinh dưỡng. Chúng ta thường dùng kem tẩy để lấy đi lớp sừng này. Nói chung, một chu kì trao đổi chất của lớp sừng kéo dài 28 ngày. Nhưng càng già, quá trình trao đổi chất này càng chậm lại, vào thời gian trao đổi chất lên đến 40 ngày.
Lớp Granular: độ ẩm của da được tích tụ ở đây, có protein chặn các tia tử ngoại. Tế bào thuộc lớp này, sẽ bị hoá nước dần trong khi lớp sừng giữ nước lại làm cho da đàn hồi và sống lâu hơn.
Spinous: nhiều mô liên kết với bạch cầu để truyền chất dinh dưỡng.
Basale: gần lớp hạ bì, là nền của lớp biểu bì, đây là lớp làm cho lớp biểu bì này chuyển động. Chúng hút nước từ lớp hạ bì và tạo lớp sừng, và mỡ cho lớp Corneum. Quá trình này càng ngày càng tăng, làm cho việc hóa sừng ngày càng nhiều.
2.1.2 Lớp trung bì
Lớp trung bì: là nơi tích dinh dưỡng cho biểu bì, sự sáng và đàn hồi của da là do lớp tế bào này. Và đặc điểm nổi bật là càng nhiều collagen thì độ co giản của da càng cao. Gồm những sợi collagen, sợi elastin đan với nhau thành một mạng lưới. Giữa những mạng lưới có những tế bào sợi, những sợi chân tóc lông, các tuyến mồ hôi, tuyến bã, mạch máu, mạch bạch huyết, sợi thần kinh. Sợi collagen và sợi elastin có nhiệm vụ giữ cho da được đàn hồi và căng. Tế bào sợi tổng hợp sợi collagen và sợi elastin.
Tuyến mồ hôi: dưới da và dưới lỗ chân lông.
Tuyến tiết ra chất nhờn gọi là bì chi tuyến . Bì chi tuyến của mỗi người hoạt động khác nhau dựa vào các yếu tố di truyền ăn uống, nghỉ ngơi, khí hậu và tâm sinh lý.
Hoạt động mạnh: da nhờn. Hoạt động yếu: da khô.
Hoạt động điều hòa: da thường.
Hoạt động mạnh ở trán, mũi, cằm: da hỗn hợp.
2.1.3 Lớp hạ bì
Lớp hạ bì: cấu tạo là các lớp mỡ và axit béo, những tế bào mỡ này sẽ được hình thành, tích trữ và bị đốt nóng tạo ra năng lượng cung cấp cho hoạt động của các mô và các cơ quan khác. Lớp mỡ này có tác dụng giữ nhiệt. Khi cơ thể tương tác với thế giới bên ngoài thì nhờ nó mà nhiệt độ trong cơ thể được giữ ổn định.
Mô mỡ: Bảo vệ da khỏi những tác động cơ học, cách nhiệt, dự trữ năng lượng. Dây thần kinh: Giúp da nhận biết những kích thích từ môi trường.
Mạch máu: Giúp da trao đổi chất. (Nguyễn Như Hiền, 2002)
2.2. TỔNG QUAN VỀ BỆNH TRỨNG CÁ
2.2.1 Khái niệm bệnh trứng cá
Bệnh trứng cá được mô tả sớm nhất trong các bài viết Hy Lạp cổ đại của Bác sĩ Byzantine Aetius Amidenus. Từ “acne” xuất phát từ acme trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “điểm” hoặc “tại chỗ”, acme viết sai thành acne và được sử dụng đến ngày nay.
Bệnh trứng cá là bệnh về da phổ biến nhất đặc biệt ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Bệnh trứng cá không thể định nghĩa là bệnh truyền nhiễm vì vi khuẩn gây mụn không
chỉ hiện diện trên da người bị mụn trứng cá mà còn trên da người khoẻ mạnh. Mụn trứng cá được hình thành do sự tăng tiết chất nhờn, tế bào phễu bị sừng hoá làm tắc nghẽn cổ nang lông, sự gia tăng mật độ vi khuẩn bên trong nang lông và sử dụng tế bào chết cùng với chất nhờn phát triển tạo thành nhân mụn nhỏ (microcomedone) không thể phát hiện bằng mắt thường (Plewig và Kligman, 2000).
2.2.2 Phân loại mụn trứng cá
Theo Phạm Hoàng Khâm (2011) bệnh trứng cá được chia thành 2 dạng là tổn thương không viêm như mụn đầu trắng (whitehead) và mụn đầu đen (blackhead) và dạng viêm bao gồm sẩn, mụn mủ, mụn bọc, mụn nang.
- Mụn đầu đen hình thành do chất bã bài tiết và tế bào chết làm tắc lỗ nang lông nhưng bề mặt da hở nên nhân mụn bị không khí oxy hoá tạo màu đen. Nhìn vào nang lông thấy màu đen nên gọi là mụn đầu đen hay mụn có cấu trúc mở.
- Mụn đầu trắng hình thành khi có quá nhiều chất dầu và tế bào chết gây bít tắc lỗ nang lông và không hở ra da, nên gọi là “nhân đóng”.
Theo Hayashi và cộng sự, 2008 sử dụng hình thái và số lượng tổn thương phân chia mụn thành 3 mức độ: nhẹ, trung bình và nặng.
- Mụn trứng cá nhẹ: từ 0-5 nốt viêm, thương tổn là một vài mụn đầu trắng, mụn đầu đen.
- Mụn trứng cá trung bình: từ 6-20 nốt viêm, thương tổn gồm nhiều mụn đầu trắng, mụn đầu đen đồng thời có thêm sẩn, mụn mủ.
- Mụn trứng cá nặng: từ 21-50 nốt viêm, thương tổn gồm nhiều mụn mủ, nang, nốt sẹo.
Theo Tutakne (2003) phân loại mụn theo bốn cấp độ:
- Cấp 1: mụn trứng cá (comedones, mụn đầu trắng, mụn đầu đen), sẩn (papules).
- Cấp 2: mụn trứng cá, vài mụn mủ (pustule).
- Cấp 3: mụn mủ, nốt sần (nodules), áp xe (abscess).
- Cấp 4: các u nang (cyst), áp xe, sẹo (scar).
2.2.3 Cơ chế gây bệnh trứng cá
Những yếu tố chính gây bệnh trứng cá là nội tiết tố kích thích tiết bã nhờn, sự sừng hoá (Keratin hoá) bất thường của phễu nang lông, tăng số lượng vi sinh vật trên da, và phản ứng viêm của tế bào chủ. Trong đó sự tăng tiết bã nhờn được coi là điều kiện cần, phản ứng viêm được xem là yếu tố then chốt, còn vi khuẩn P. acnes đóng vai trò quan trọng gây ra bệnh trứng cá (Loveckova el al., 2002). Ngoài ra còn các yếu tố khác như yếu tố di truyền, chế độ dinh dưỡng, môi trường làm việc, khí hậu, lạm dụng
mỹ phẩm... cũng có liên qua đến tình trạng bệnh trứng cá (Nguyễn Thanh Hùng và Nguyễn Tất Thắng, 2013).