Một Số Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Dịch Vụ Cho Vay Ngắn Hạn Dành Cho Khách Hàng Doanh Nghiệp Của Ngân Hàng Thương Mại


(1) Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô

- Các chỉ tiêu về dư nợ cho vay ngắn hạn DNVVN

Dư nợ cho vay ngắn hạn vốn đối với DNVVN là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho doanh nghiệp vay tại một thời điểm nhất định, thường xem xét ở thời điểm cuối kỳ. Đây là số tuyệt đối thể hiện quy mô cho vay vốn tới các doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Ngoài ra, người ta còn xem xét tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn vốn của DNVVN trên tổng số dư nợ của ngân hàng hoặc tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn vốn của khách hàng DNVVN qua các năm, được biểu hiện thành số tương đối.

- Tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn DNVVN trên tổng số dư nợ của ngân hàng được xác định như sau:

Tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ vai trò của cho vay DNVVN và định hướng phát 1

Tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ vai trò của cho vay DNVVN và định hướng phát triển của Ngân hàng trong việc tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với đối tượng này, song cũng có thể là do nợ quá hạn từ hoạt động cho vay này tăng cao.

- Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn DNVVN được xác định như

sau:


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.

Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng trưởng hoạt động cho vay đối với đối 2

Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng trưởng hoạt động cho vay đối với đối tượng DNVVN năm nay so với năm trước. Tốc độ tăng trưởng dư nợ >100% cho biết quy mô dư nợ của DNVVN tăng, và ngược lại, nếu tốc độ tăng trưởng <100% thì quy mô dư nợ của DNVVN bị thu hẹp.

Chất lượng dịch vụ cho vay ngắn hạn dành cho khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Khu công nghiệp Quế Võ - 5

- Chỉ tiêu về dư nợ cho vay ngắn hạn vốn có tài sản bảo đảm đối với DNVVN

TSBĐ được coi như một hình thức bảo đảm cho khoản vay, là cam kết và nguồn trả nợ thứ hai của doanh nghiệp khi rủi ro xảy ra, do đó một trong những yêu cầu khi thực hiện cấp tín dụng đối với khách hàng là TSBĐ, bao gồm các hình thức như cầm cố, thế chấp, ký quỹ và bảo lãnh của bên thứ ba.


Tỷ lệ dư nợ cho vay ngắn hạn vốn DNVVN có tài sản bảo đảm được xác định như sau:

Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ có TSBĐ phản ánh mức độ an toàn của khoản cho vay 3

Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ có TSBĐ phản ánh mức độ an toàn của khoản cho vay. Nó cũng phản ánh mức độ bù đắp tổn thất cho ngân hàng khi có rủi ro xảy ra, doanh nghiệp không trả được nợ và lãi đúng thời hạn. Chỉ tiêu này càng cao thì rủi ro tín dụng càng giảm, hiệu quả cho vay tốt.

(2) Nhóm chỉ tiêu phản ánh rủi ro trong hoạt động cho vay

* Chỉ tiêu về nợ quá hạn đối với DNVVN

Nợ quá hạn từ hoạt động cho vay vốn của DNVVN là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn mà không được doanh nghiệp hoàn trả theo đúng thời hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Ngoài giá trị tuyệt đối của nợ quá hạn, người ta còn tính toán tỷ lệ nợ quá hạn từ hoạt động cho vay vốn trên tổng dư nợ của DNVVN hoặc tỷ lệ nợ quá hạn từ hoạt động cho vay vốn của DNVVN trên tổng giá trị nợ quá hạn của ngân hàng.

- Tỷ lệ nợ quá hạn từ hoạt động cho vay DNVVN trên tổng dư nợ của DNVVN được xác định như sau:

Tỷ lệ nợ quá hạn từ hoạt động cho vay DNVVN trên tổng nợ quá hạn của 4

- Tỷ lệ nợ quá hạn từ hoạt động cho vay DNVVN trên tổng nợ quá hạn của ngân hàng được xác định như sau:

Theo cách phân loại nợ quá hạn thì nợ quá hạn nằm ở 5 nhóm nợ từ Nhóm 1 5

Theo cách phân loại nợ quá hạn thì nợ quá hạn nằm ở 5 nhóm nợ (từ Nhóm 1 đến Nhóm 5). Doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản, khiến Ngân hàng gia tăng chi phí do phải tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Như vậy, chỉ tiêu nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả cho vay của ngân hàng, nó cho biết những rủi ro


khi cho vay mà ngân hàng có thể gặp phải. Nhìn vào tỷ lệ nợ quá hạn có thể đánh giá được một phần hiệu quả cho vay của ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này cao thì ngân hàng sẽ bị đánh giá là có hiệu quả cho vay thấp và ngược lại.

* Chỉ tiêu về nợ xấu từ hoạt động cho vay DNVVN

Thông tư số 02/2013/TT-NHNN của NHNN quy định, Nợ xấu (NPL) là nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 và Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa nợ xấu so với tổng nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5. Như vậy, nợ xấu từ hoạt động cho vay vốn của DNVVN là khoản nợ của DNVVN được ngân hàng xếp vào các nhóm 3, 4 và 5. Có một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như NHTM không thực hiện xếp hạng tín dụng định kỳ hoặc các doanh nghiệp suy giảm khả năng trả nợ, buộc phải cơ cấu lại thời hạn trả nợ hoặc phá sản, không còn khả năng trả nợ ngân hàng. Tổng giá trị nợ xấu hay tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của DNVVN đều phản ánh khả năng thu lại tiền cho vay là thấp, đồng nghĩa với chất lượng khoản vay đối với DNVVN không được bảo đảm. Để nâng cao hiệu quả cho vay đối tượng DNVVN thì ngân hàng phải dùng mọi biện pháp để giảm mức tối đa giá trị này. Tuy nhiên, khi thực hiện hoạt động kinh doanh, rủi ro là không tránh khỏi, nên ngân hàng có thế chấp nhận tỷ lệ nợ xấu nhất định trên tổng dư nợ cho vay ngắn hạn. Theo quy định của NHNN hiện nay thì tỷ lệ nợ xấu tối đa của các TCTD là 3%.

* Chỉ tiêu về trích lập dự phòng rủi ro đối với DNVVN

Thông tư số 02/2013/TT-NHNN và Thông tư 09/2014/TT-NHNN quy định về trích lập dự phòng bao gồm dự phòng chung và dự phòng cụ thể.

Tỷ lệ trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro của ngân hàng càng cao hay số tiền trích lập quỹ dự phòng rủi ro càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ của ngân hàng chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng càng thấp vì tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể chỉ tính dựa trên dư nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5. Nhóm nợ càng cao thì tỷ lệ được trích lập càng lớn. Một ngân hàng có dự phòng rủi ro càng cao thì chi phí hoạt động của ngân hàng này càng lớn, giảm khả năng sinh lời của ngân hàng từ hoạt động dự phòng.

(3) Nhóm chỉ tiêu phản ánh thu nhập từ hoạt động cho vay

* Chỉ tiêu về lãi dự thu đối với khoản cho vay DNVVN


Các khoản lãi ngân hàng dự kiến thu được trong tương lai từ hoạt động cho vay khách hàng DNVVN, chưa thu được được hạch toán vào báo cáo thu nhập của ngân hàng như một khoản chính thức. Lãi dự thu chỉ tính trên nợ nhóm 1.

Lãi dự thu tăng cao là một dấu hiệu cho thấy sự tăng trưởng tốt về thu nhập đối dư nợ cho vay ngắn hạn đối với khách hàng tuy nhiên, trong một số trường hợp nếu dư nợ cho vay ngắn hạn không tăng trưởng, trong khi lãi dự thu tăng cao là dấu hiệu cho thấy vấn đề của khoản tín dụng, doanh nghiệp vay vốn không thể thanh toán đầy đủ lãi đến hạn.

* Chỉ tiêu về thu nhập từ hoạt động cho vay DNVVN

- Thu nhập lãi thuần (Net Investment Income - NII) là chỉ số dùng để xác định chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí phải trả (về tổng giá trị). Giá trị này bao gồm thu nhập lãi thuần từ hoạt động cho vay (NII cho vay) và thu nhập lãi thuần từ hoạt động huy động vốn (NII huy động).

Đối với các chi nhánh, giá trị NII cho vay DNVVN là phần chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt động cho vay DNVVN và phần chi phí mua vốn từ Trụ sở chính để thực hiện hoạt động cho vay của chi nhánh.

1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ cho vay ngắn hạn dành cho khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng thương mại

1.3.1. Các yếu tố khách quan

- Môi trường kinh tế

Tính ổn định hay bất ổn định về tình hình kinh tế và chính sách kinh tế của mỗi quốc gia luôn có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, tác động đến hoạt động tín dụng của NHTM. Nền kinh tế ổn định sẽ là điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh doanh phát triển, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên là cơ hội tốt cho việc tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thu được lợi nhuận cao, doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, do đó nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp cũng được tăng lên, tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp, từ đó góp phần vào sự thành công chung của ngân hàng.


Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào giai đoạn trì trệ, suy thoái, dẫn đến sức mua giảm, sản xuất kinh doanh bị đình trệ, quy mô sản xuất thu hẹp và nhu cầu đầu tư giảm mạnh, làm cho tình hình tài chính các doanh nghiệp gặp khó khăn và có thể bị thua lỗ dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ cho ngân hàng cũng như khả năng mở rộng hoạt động của NHTM, dẫn đến làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng và kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

- Môi trường chính trị pháp luật

Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành kinh doanh chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp luật và các cơ quan chức năng. Hoạt động của ngân hàng thường được điều chỉnh chặt chẽ bởi các quy định pháp luật. Môi trường pháp lý sẽ đem đến cho ngân hàng các cơ hội mới và cả những thách thức mới, như việc dỡ bỏ các hạn chế về huy động tiền gửi nội tệ sẽ mở đường cho các ngân hàng nước ngoài phát triển các sản phẩm huy động tiền gửi và các sản phẩm về cho vay nội tệ. Còn sự nới lỏng trong quản lý của luật pháp cũng có thể đặt cho ngân hàng trước những nguy cơ cạnh tranh mới, như một số thay đổi trong luật ngân hàng cho phép thành lập các ngân hàng nước ngoài sẽ đặt các ngân hàng trong nước vào tình thế bị cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.

Môi trường chính trị pháp luật càng ổn định và có nhiều chính sách phù hợp thì chất lượng dịch vụ cho vay KHDN càng nâng cao và ngược lại.

Như vậy, môi trường pháp luật tạo cơ sở pháp lí ràng buộc và tác động đến việc hình thành, tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Chính vì vậy mà các nhà quản lý cần nắm chắc luật để thực hiện các hoạt động ngân hàng đúng pháp luật, quan trọng hơn còn phải phát hiện những điều pháp luật không cấm để có thể đưa ra những quyết định chính xác, phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ngân hàng.

- Môi trường cạnh tranh

Có thể nói đây là yếu tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh chung của NHTM. Sự tác động đó diễn ra theo hai chiều hướng:


Một là, để chiếm ưu thế trong cạnh tranh các ngân hàng luôn phải quan tâm tới đầu tư trang thiết bị tốt, tăng cường đội ngũ nhân viên có trình độ, đa dạng hóa các sản phẩm đảm bảo tính cạnh tranh, xây dựng uy tín và duy trì thế mạnh của ngân hàng. Hướng tác động này đã tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng.

Hai là, dưới áp lực của cạnh tranh dẫn đến các ngân hàng có thể bỏ qua một số điều kiện tín dụng, nhưng sẽ khiến cho rủi ro tăng lên, có thể làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.

1.3.2. Các yếu tố chủ quan

Nhóm yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ cho vay chịu tác động của các nhân tố từ trong nội tại chính ngân hàng, bao gồm:

* Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp

- Tình hình huy động vốn

Đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Ngân hàng chỉ có thể tài trợ vốn cho nền kinh tế nói chung và cho KHDN nói riêng khi bản thân họ có nguồn vốn dồi dào đủ để thực hiện nghiệp vụ này, cũng như đảm bảo các hoạt động kinh doanh khác, vốn huy động ngắn hạn là nguồn chủ yếu để cho vay ngắn hạn, vốn huy động trung, dài hạn là nguồn chủ yếu để cho vay trung, dài hạn. Vốn huy động càng lớn thì NHTM càng có khả năng cho vay ra nền kinh tế được nhiều. Nếu một ngân hàng không có được sự phù hợp về kỳ hạn giữa nguồn huy động và dư nợ cho vay đồng thời không dự kiến, chuẩn bị được nguồn bù đắp phù hợp, kịp thời thì rủi ro thanh khoản sẽ rất dễ xảy ra. Nguồn vốn dồi dào cũng tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao cơ sở hạ tầng vật chất nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các hoạt động của NHTM.

- Chính sách tín dụng và quy trình cấp tín dụng

Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng và có tác động đến phần lớn các cơ chế chính sách của NHTM. Hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng, được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm. Theo đó, chính sách tín dụng tạo ra sự thống nhất chung và tăng cường chuyên môn hóa cho hoạt động tín dụng.


Chính sách tín dụng bao gồm các chính sách về khách hàng, chính sách về quy mô và giới hạn cho vay, chính sách lãi suất và phí suất tín dụng, bảo đảm tiền vay,... Trước mỗi kỳ kinh doanh, các NHTM thường đưa ra định hướng đối với mọi hoạt động, trong đó có hoạt động tín dụng, xác định rõ các chỉ tiêu đối với từng đối tượng khách hàng, như khách hàng doanh nghiệp, bán lẻ,... Nếu ngân hàng xác định mở rộng tín dụng ngắn hạn với đối tượng KHDN thì chính sách tín dụng ngắn hạn đối với KHDN sẽ được nới lỏng hơn. Khi đó các điều kiện về hồ sơ vay vốn, tài sản bảo đảm cũng dễ được chấp nhận hơn, các KHDN sẽ thuận lợi hơn khi tiếp cận với vốn vay ngắn hạn của ngân hàng. Ngược lại, nếu ngân hàng xác định hạn chế cho vay một số lĩnh vực của KHDN để tập trung tăng trưởng ở các phân khúc khách hàng khác hoặc trong giai đoạn cần kiểm soát chặt về chất lượng nợ tại phân khúc này thì sẽ khiến cho việc vay vốn của KHDN ở lĩnh vực hạn chế gặp khó khăn. Vậy nhân tố tiên quyết và quan trọng nhất tác động đến hoạt động tín dụng đối với KHDN là định hướng tín dụng, thiện chí cho vay của NHTM và điều đó thể hiện rõ nhất ở các văn bản hướng dẫn về chính sách tín dụng, định hướng tín dụng của NHTM.

Quy định, quy trình cấp tín dụng là tập hợp những nội dung, nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn cho vay. Nó bao gồm các bước bắt đầu từ khâu tìm kiếm khách hàng, thẩm định và quyết định định cấp tín dụng, giải ngân vốn cho vay, quá trình quản lý kiểm tra giám sát khoản vốn cho vay đến khi thu hồi đầy đủ các khoản nợ.

Quy trình cấp tín dụng khoa học, rõ ràng giúp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Thủ tục vay đơn giản, rõ ràng giúp thu hút được nhiều khách hàng từ đó mở rộng được quy mô cho vay. Hơn thế nữa, thủ tục đơn giản, rõ ràng giúp việc quản lý khoản vay dễ dàng và nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay.

- Chất lượng nguồn nhân lực

Chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và trong hoạt động tín dụng nói riêng. Sở dĩ như vậy là vì cán bộ quan hệ khách hàng – người


tham gia trực tiếp vào tất cả các khâu của quy trình cấp tín dụng, từ bước đầu tiên đến bước cuối cùng. Bên cạnh đó, chất lượng của đội ngủ quản lý cũng rất quan trọng, đây là những người đưa ra định hướng cho các hoạt động kinh doanh và là người đưa ra quyết định cuối cùng cho việc thực hiện các hoạt động kinh doanh.

Chất lượng nguồn nhân lực ở đây không chỉ là vấn đề về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tác phong làm việc, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động mà còn bao gồm cả lương tâm, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ ngân hàng. Đặc biệt là trong lĩnh vực cho vay ngân hàng luôn chứa đựng những cám dỗ về vật chất, do đó đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải có lòng kiên định vững chắc. Có thể nói con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng, vì vậy việc tuyển chọn cán bộ quan hệ khách hàng cần phải được tiến hành một cách kỹ lưỡng, đảm bảo có cả đức lẫn tài, phát huy thế mạnh của từng cán bộ trong việc đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển của NHTM, đồng thời nhằm ngăn ngừa những sai phạm trong quá trình thực hiện các hoạt động cấp tín dụng, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng.

- Điều kiện về cơ sở vật chất

Chất lượng của cơ sở vật chất cũng rất quan trọng để hỗ trợ cho công tác thẩm định cấp tín dụng và công tác quản lý. Cơ sở vật chất gồm hệ thống máy móc trang thiết bị, phương tiện làm việc, các chương trình hệ thống quản lý. Các NHTM cần phải trang bị hệ thống máy móc trang thiết bị hiện đại, đáp ứng đầy đủ năng lực về máy móc thiết bị để có thể vận hành trơn tru các phần mềm, hệ thống quản lý, nhằm hỗ trợ hiệu quả cho các hoạt động kinh doanh. Một hệ thống ứng dụng quản lý hiệu quả sẽ đảm bảo việc cung cấp các dữ liệu thông tin kinh doanh một cách kịp thời và đầy đủ nhằm phục vụ cho việc ra quyết định một cách chính xác, kịp thời và hiệu quả cao.

- Thông tin tín dụng

Thông tin tín dụng rất quan trọng đối với hoạt động cấp tín dụng. Thông tin tín dụng là cơ sở, yếu tố cơ bản để phục vụ cho công tác thẩm định nhằm đưa ra các

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/02/2023