ngư nghiệp. Người làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước, trường tư và nhân viên Chính phủ thực hiện theo hệ thống riêng.
- Nguồn hình thành quỹ:
Quỹ bảo hiểm TNLĐ chỉ do người sử dụng lao động đóng góp. Mức đóng góp từ 0,6% đến 29,9% quỹ lương, phụ thuộc rủi ro công nghiệp. Nhà nước không hỗ trợ cho việc hình thành quỹ mà chỉ chi phí cho việc quản lý hành chính.
- Quyền lợi của người lao động:
Người lao động được bồi thường ở tất cả các mức thương tật, được trả chi phí về y tế, được hưởng trợ cấp một lần hoặc hàng tháng khi bị thương tật tạm thời hoặc vĩnh viễn. Ngoài ra người lao động còn được hưởng các dịch vụ phục hồi chức năng, gồm điều trị y tế, mổ, nằm viện và cả trang thiết bị nếu họ bị tàn tật do bị thương từ TNLĐ. Đặc biệt, người lao động bị TNLĐ được đào tạo lại nghề phù hợp. Nếu người lao động chết thì được nhận tiền mai táng phí, thân nhân người bị TNLĐ còn được trợ cấp hàng tháng theo luật định.
Người lao động không được bồi thường trong trường hợp xảy ra TNLĐ do ngộ độc hoặc say rượu do bản thân, do cố ý tự sát hoặc do cẩu thả vô ý thức.
- Quản lý:
Cơ quan An sinh xã hội Thái Lan có trách nhiệm quản lý và tổ chức thực hiện chế độ TNLĐ, BNN ở Thái Lan. Đây là cơ quan thuộc Chính phủ được thành lập theo Luật BHXH.
Uỷ ban Bồi thường TNLĐ, BNN thuộc Cơ quan An sinh xã hội có trách nhiệm quản lý quỹ và thực hiện chế độ cho người lao động, Uỷ ban gồm đại diện người lao động, người sử dụng lao động và các chuyên gia về BHXH. Uỷ ban có trách nhiệm: đánh giá và xây dựng tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động; xây dựng các chính sách bồi thường, chương trình
nghiên cứu hướng tới việc ngăn chặn các TNLĐ, BNN và các biện pháp về ATVSLĐ; giải quyết tranh chấp, khiếu nại.
Có thể bạn quan tâm!
- Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam - 1
- Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam - 2
- Lược Sử Pháp Luật Về Chế Độ Tai Nạn Lao Động, Bệnh Nghề Nghiệp Ở Việt Nam
- Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam - 5
- Đánh Giá Về Các Hạn Chế Trong Pháp Luật Về Chế Độ Tai Nạn Lao Động, Bệnh Nghề Nghiệp
- Thực Trạng Việc Thực Hiện Chế Độ Tai Nạn Lao Động, Bệnh Nghề Nghiệp
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Nhìn chung, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN ở Thái Lan khá hoàn chỉnh. Một số quy định có ý nghĩa rất tích cực trong việc nâng cao ý thức về ATVSLĐ cho người sử dụng lao động cũng như người lao động, tiến tới giảm thiểu các rủi ro xảy ra TNLĐ, BNN như: tỷ lệ đóng góp vào Quỹ của người sử dụng lao động phụ thuộc vào tỷ lệ rủi ro của từng ngành nghề; người lao động sau TNLĐ được đào tạo lại nghề để quay trở lại lao động; người lao động nếu không tuân thủ đúng các quy định về báo cáo TNLĐ, BNN thì sẽ bị phạt một khoản tiền theo quy định.
b. Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động ở Nhật Bản
Là một quốc gia có nền kinh tế phát triển ở khu vực châu Á, Nhật Bản rất quan tâm đến việc ổn định xã hội, nâng cao mức sống của người lao động. Bảo hiểm TNLĐ là một trong các chế độ của hệ thống bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản, được quy định như sau:
- Đối tượng áp dụng:
Chế độ bảo hiểm TNLĐ chỉ áp dụng đối với người lao động làm việc trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh (còn công chức nhà nước có chương trình bảo hiểm riêng). Tuy nhiên, luật bảo hiểm TNLĐ Nhật Bản chia thành hai loại bảo hiểm: bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Bảo hiểm tự nguyện áp dụng đối với các đơn vị tư nhân sản xuất nhỏ có sử dụng 5 lao động hoặc không có việc làm đều đặn hoặc số lao động thuê cả năm dưới 300 người, việc tham gia bảo hiểm do người sử dụng lao động hoặc người lao động tại doanh nghiệp quyết định.
- Nguồn hình thành quỹ:
Chủ sử dụng lao động chịu đóng góp toàn bộ phí bảo hiểm với 27 mức đóng từ 0,6% đến 13,4% quỹ lương tuỳ theo ngành nghề, mức độ rủi ro và số lao động làm việc. Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho bảo hiểm TNLĐ trong giới hạn ngân sách nhà nước.
- Các loại trợ cấp:
Trợ cấp bảo hiểm TNLĐ được quy định thành 6 loại trợ cấp, bao gồm: trợ cấp y tế, trợ cấp giảm sút thu nhập, trợ cấp thương tật, trợ cấp khuyết tật, trợ cấp thân nhân người chết do TNLĐ, trợ cấp phục vụ (khi người bị TNLĐ không có khả năng tự phục vụ mình).
- Quản lý:
Chế độ bảo hiểm TNLĐ ở Nhật Bản do Chính phủ trực tiếp quản lý và do Bộ Lao động chịu trách nhiệm quản lý hành chính.
Là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển ở châu Á, Nhật Bản có một hệ thống các quy định về chế độ TNLĐ hoàn chỉnh, chặt chẽ, tiến bộ, đã tách riêng công chức thành đối tượng bảo hiểm riêng biệt, phân chia thành hai loại hình bảo hiểm bắt buộc và tự nguyện, có một hệ thống trợ cấp đa dạng bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Tuy nhiên về điều kiện hưởng trợ cấp, Luật bảo hiểm TNLĐ Nhật Bản quy định chỉ được coi là TNLĐ trong trường hợp người lao động thi hành công việc, nhiệm vụ lao động dưới sự quản lý, giám sát của chủ sử dụng lao động đã làm thu hẹp đối tượng hưởng trợ cấp bảo hiểm TNLĐ.
1.5.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
So sánh với pháp luật các nước, Luận văn rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
- Cần mở rộng đối tượng bảo vệ của chế độ TNLĐ, BNN đến toàn bộ người lao động làm công ăn lương. Việc mở rộng phạm vi áp dụng này vừa
đảm bảo quyền lợi cho người lao động, vừa thực hiện nguyên tắc số đông bù số ít trong hoạt động BHXH.
- Quy định tỷ lệ đóng góp vào Quỹ TNLĐ, BNN là khác nhau giữa các ngành nghề. Việc quy định tỷ lệ đóng góp khác nhau sẽ đảm bảo sự công bằng giữa các đơn vị tham gia chế độ TNLĐ, BNN, mặt khác tạo động lực cho người sử dụng lao động quan tâm và đầu tư nguồn lực thực hiện tốt công tác ATVSLĐ.
- Thực hiện chức năng phòng ngừa và hạn chế tổn thất của hoạt động bảo hiểm. Chức năng này có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, như đầu tư trở lại cho đơn vị sử dụng lao động để cải thiện điều kiện lao động, tổ chức huấn luyện ATVSLĐ, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người lao động cũng như chủ sử dụng lao động.
Thực tế, chi phí cho công tác phòng ngừa TNLĐ, BNN thấp hơn nhiều so với chi phí bồi thường, khắc phục hậu quả từ TNLĐ, BNN. Ngoài chi phí bồi thường, trợ cấp cho người bị TNLĐ, BNN mà tổ chức BHXH gánh chịu, thì còn phát sinh nhiều vấn đề xã hội về lực lượng lao động, chi phí y tế, tinh thần của người lao động sau khi bị rủi ro, chưa kể đến những thiệt hại về phía người sử dụng lao động.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong xã hội hiện nay. Bên cạnh đối tượng lao động trí thức rất phổ biến thì lực lượng lao động lao động chân tay vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong số các ngành nghề lao động sản xuất vật chất, và rủi ro trong quá trình lao động dẫn đến TNLĐ, BNN vẫn là rất cao. Là một chế định pháp luật về bảo hiểm, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN đảm bảo an toàn về đời sống cho bản thân và gia đình người lao động bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp. Bên cạnh đó, chế độ TNLĐ, BNN còn bảo vệ quyền lợi của người sử dụng lao động trong việc xác định phạm vị trách nhiệm khi người lao động bị TNLĐ, BNN. Các quy định pháp luật về TNLĐ, BNN là cơ sở pháp lý quan trọng trong giải quyết bồi thường về TNLĐ, BNN và các tranh chấp liên quan, qua đó góp phần duy trì ổn định xã hội.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP VÀ VIỆC THỰC THI Ở VIỆT NAM
TNLĐ, BNN hiện nay xảy ra rất phổ biến trong các ngành nghề lao động tay chân, mà nguyên nhân trực tiếp là do điều kiện lao động, môi trường làm việc và gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động. Nó thường là hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật về ATVSLĐ và dẫn đến việc thay đổi quan hệ pháp luật lao động, thậm chí chấm dứt quan hệ pháp luật lao động nếu người bị TNLĐ, BNN chết hoặc không thể phục hồi khả năng lao động đủ để bố trí sắp xếp lại công việc phù hợp. Và cùng với tính chất đặc trưng này mà chế độ TNLĐ, BNN có sự khác biệt so với các chế độ BHXH khác.
2.1. Thực trạng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
2.1.1. Các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định tại Hiến pháp 1992, trong đó “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân” và “Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động, … khuyến khích các hình thức phát triển các hình thức BHXH đối với người lao động”. Có thể thấy, trong văn bản pháp lý cao nhất, Nhà nước đã xác định và bảo vệ lợi ích của người lao động một cách tối đa. Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 1992 về vấn đề bảo vệ quyền lợi người lao động nói chung, người lao động bị TNLĐ, BNN nói riêng, các nội dung về chế độ TNLĐ, BNN được quy định rất cụ thể tại Luật Bảo hiểm xã hội 2006, Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH hướng dẫn Nghị định số 152/2006/NĐ-CP, Thông tư số 19/2008/TT-BLĐTBXH sửa đổi, bổ sung Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH và nhiều văn bản khác.
a. Đối tượng và điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
(1) Đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Việc quy định những chủ thể nào thuộc đối tượng áp dụng chế độ TNLĐ, BNN là rất quan trọng, bởi đây là cơ sở, tiền đề để tiến hành những bước tiếp theo như xác định chủ thể bồi thường, xây dựng hồ sơ, thủ tục, giải quyết khiếu nại tố cáo… Vì vậy, trong các văn bản pháp lý của Việt Nam, phần này được quy định khá chi tiết, cụ thể.
Luật Bảo hiểm xã hội 2006 quy định đối tượng áp dụng chế độ TNLĐ, BNN tại Điều 38, trong đó chế độ TNLĐ, BNN được áp dụng đối với người lao động tham gia BHXH là công dân Việt Nam, trừ đối tượng người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Cụ thể hóa quy định này, Điều 18 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc đã liệt kê các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN bao gồm:
- Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức;
- Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động kể cả cán bộ quản lý, người lao động làm việc trong hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên;
- Người lao động là công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang;
- Người lao động đã tham gia BHXH bắt buộc mà chưa nhận BHXH một lần trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, với doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu công trình ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định người lao động của những cơ quan, tổ chức trên đang trong thời gian học nghề, tập nghề cũng thuộc đối tượng được áp dụng chế độ TNLĐ, BNN.
Nhìn chung, những quy định của pháp luật hiện hành về đối tượng áp dụng chế độ TNLĐ, BNN là khá cụ thể, rõ ràng. Hệ thống pháp luật về TNLĐ, BNN còn thể hiện sự tiến bộ trong việc thừa nhận người lao động trong thời gian học nghề, tập nghề mà bị TNLĐ, BNN cũng được hưởng chế độ bồi thường, trợ cấp như những người lao động khác. Điều này là hợp lý, vì việc người lao động học tập, đào tạo nghề là theo yêu cầu của người sử dụng lao động và nhằm phục vụ tốt hơn cho công việc, nên nếu vì điều này mà họ bị TNLĐ thì đương nhiên cũng được hưởng chế độ như những người lao động khác.
Tuy nhiên, cũng theo quy định này thì đối tượng người lao động làm việc theo hợp đồng lao động nhưng chưa đủ 3 tháng, nếu rủi ro gặp TNLĐ hoặc BNN thì không được hưởng chế độ TNLĐ, BNN. Đây là một trong những bất cập trong quy định của pháp luật về chế độ TNLĐ, BNN và việc thực thi các quy định đó trên thực tế. Đối tượng lao động này chưa đủ thời gian đóng BHXH để được hưởng chế độ theo luật định. Thiết nghĩ, để đảm bảo toàn diện quyền lợi của người lao động, cần có quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với đối tượng lao động theo hợp đồng lao động nhưng chưa đủ 3 tháng khi họ gặp TNLĐ, BNN. Nên chăng các doanh