Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Cho Vay Ngắn Hạn

Thứ nhất, sự phát triển của các DNV&N ở Việt Nam trải qua nhiều biến động, thăng trầm. Các DNV&N thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ chức doanh nghiệp bao gồm từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và các công ty tư nhân đến các hợp tác xã. Trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung các DNV&N thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển do vậy đã ảnh hưởng đến tâm lý phong cách kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay mặc dù hiện nay do đổi mới cơ chế mà các DNV&N thuộc các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển.

Thứ hai, Việt Nam là một nước có nền kinh tế còn tương đối kém phát triển nên sản xuất nhỏ còn phổ biến. Do vậy các DNV&N tất nhiên sẽ có qui mô vốn và lao động nhỏ. Hơn nữa, mặc dù xuất phát từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau nhưng DNV&N đa số khởi sự từ khu vực kinh tế tư nhân nên sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động.

Thứ ba, khả năng quản lý hạn chế do trình độ của các nhà quản lý doanh nghiệp thường không cao và ít kinh nghiệm thực tế do chủ doanh nghiệp thường là những kĩ sư hoặc những kĩ thuật viên mới ra trường. Họ còn thiếu kiến thức về quản trị doanh nghiệp và luật pháp.Người quản lý doanh nghiệp đôi khi còn tham gia vào sản xuất nên mức độ chuyên môn hoá trong công việc không cao. Việc tách bạch giữa các bộ phận không rõ ràng do vậy hiệu quả quản lý doanh nghiệp thấp. Đa số ông chủ các DNV&N thường chưa qua một khoá đào tạo chính qui nào.

Thứ tư, trang thiết bị và công nghệ lạc hậu do không đủ trình độ về vốn và nhân lực do vậy giá thành sản phẩm thường cao, chất lượng và năng suất lao động thấp do vậy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thường không cao. Tuy nhiên cũng cần khẳng định rằng do qui mô nhỏ nên các DNV&N khá linh hoạt trong việc thay đổi công nghệ và thường có những

sáng kiến đổi mới công nghệ phù hợp với qui mô của mình để tạo ra sản phẩm có thể cạnh tranh trên thị trường.

Thứ năm, trình độ tay nghề của người lao động thường thấp do các chủ DNV&N không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thu hút lao động có kĩ thuật. Lao động của DNV&N chủ yếu là do tự đào tạo nên thường không có kinh nghiệm và sự sáng tạo trong sản xuất thấp nên năng suất lao động không cao.

Thứ sáu, xu hướng đầu tư của các DNV&N là tập trung vào các ngành cần ít vốn, thu hồi vốn nhanh, lãi suất cao như thương nghiệp, dịch vụ, du lịch.

Ngoài ra DNV&N còn có một số đặc điểm sau: Trình độ văn hoá kinh doanh còn chưa cao, còn tồn tại hiện tượng làm ăn chộp giật, trốn lậu thuế, vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, các DNV&N thường sử dụng diện tích đất riêng để sản xuất do vậy rất khó khăn trong việc mở rộng qui mô sản xuất. Mặt khác, khả năng tiếp cận thị trường không cao do các DNV&N thường mới thành lập thiếu kinh nghiệm trong việc tiếp cận thị trường hơn nữa họ chưa có khả năng trong xây dựng chính sách Marketing phù hợp. Thị trường của các DNV&N chủ yếu là người dân địa phương.

Xuất phát từ những đặc điểm trên chúng ta có thể đưa ra một số ưu thế cũng như hạn chế của DNV&N để giúp cho các Ngân hàng tiện trong việc đưa ra các quyết định có nên tập trung vào đối tượng này hay không.

Như đã trình bày thì DNV&N có đặc điểm lớn nhất là quy mô vốn nhỏ nên các DNV&N rất cơ động, linh hoạt, dễ chuyển hướng kinh doanh. Những ưu thế của DNV&N cũng xuất phát từ chính đặc điểm này:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Thứ nhất, dễ dàng thành lập doanh nghiệp do đòi hỏi ít vốn, diện tích mặt bằng không nhiều, các điều kiện sản xuất kinh doanh đơn giản.

Nhạy cảm với sự thay đổi của thị trường đặc biệt là thị trường địa phương nơi doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh.

Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ - 3

Thứ hai, do qui mô vốn đầu tư vào trang thiết bị không lớn nên dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ khi nhu cầu thị trường thay đổi cũng như khi muốn cải tiến nâng cao năng suất.

Thứ ba, sẵn sàng đầu tư vào những lĩnh vực mới, những lĩnh vực có độ rủi ro cao.

Thứ tư, có thể sản xuất sản phẩm có chất lượng khi điều kiện sản xuất kinh doanh có nhiều hạn chế.

Bên cạnh đó, do quy mô vốn không lớn, điều kiện sản xuất hạn hẹp là ưu thế của DNV&N nhưng cũng vì nó mà tạo ra nhiều hạn chế trong việc hoạt động của DNV&N:

Thứ nhất, khó khăn trong đầu tư công nghệ mới đặc biệt là công nghệ cao đòi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất cũng như chất lượng và giá thành sản phẩm làm cho sản phẩm khó có thể cạnh tranh trên thị trường.

Thứ hai, việc đầu tư cho đào tạo lao động, đào tạo người quản lý, đầu tư cho nghiên cứu thường còn nhiều hạn chế do kinh phí hạn hẹp. Do vậy rất khó khăn trong việc nâng cao chất lượng quản lý cũng như người lao động, cải tiến công nghệ và tất yếu là năng suất lao động không cao.

Thứ ba, xuất phát từ quy mô vốn và lao động mà các DNV&N chủ yếu hoạt động ở địa phương. Họ thường bị động trong các quan hệ thị trường, khả năng tiếp thị, khó khăn trong việc mở rộng hợp tác với bên ngoài đôi khi là do họ không quan tâm đúng mức tới chinh sách Marketing.

Thứ tư, tư tưởng kinh doanh chộp giật không có tính chất lâu dài nên các DNV&N thường có tư tưởng trốn lậu thuế, không đăng kí kinh doanh, hàng hoá sản xuất kém chất lượng. Do các DNV&N hoạt động phân tán nên đòi hỏi một sự quản lý nghiêm ngặt của chính quyền các cấp.

1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của cho vay ngắn hạn

Cho vay ngắn hạn là hình thức cấp tín dụng có thời hạn hợp đồng dưới 1 năm có thể chia thành các khoảng thời gian là 3 tháng, 9 tháng, 12 tháng.

CVNH là loại hình cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên như mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân, dự trữ hàng hoá.

Cho vay ngắn hạn là một hình thức sử dụng vốn phổ biến nhất của NHTM. Các khoản cho vay này thường ít rủi ro hơn về khả năng thanh toán cũng như rủi ro về lãi suất hơn so với cho vay trung và dài hạn. CVNH cũng mang những đặc trưng chung của loại hình cho vay là tính hoàn trả, tính thời hạn và dựa trên cơ sở lòng tin thì ngoài ra CVNH còn một số đặc điểm riêng sau.

Thứ nhất, CVNH có thời gian thu hồi vốn nhanh; do các khoản cho vay ngắn hạn thường dưới một năm nên nó thường ít rủi ro hơn so với cho vay trung hạn, dài hạn. Như vậy mức lãi suất CVNH cũng thấp hơn so với cho vay trung và dài hạn.

Thứ hai, đây là hình thức cho vay phổ biến và truyền thống của NHTM; ngân hàng hoạt động trên cơ sỏ nhận tiền gửi và đi vay để cho vay. Trong khi các khoản nhận tiền gửi và đi vay chủ yếu là ngắn hạn nên vì mục tiêu an toàn và sinh lợi các ngân hàng cũng chủ yếu cho vay ngắn hạn. Hơn nữa theo qui định các ngân hàng cũng chỉ được phép chuyển một tỷ lệ nhất định các khoản tiền gửi ngắn hạn để cho vay dài han. Ngày nay tuy hoạt động tín dụng đã có nhiều bước phát triển nhưng CVNH vẫn chiếm tỷ trọng lớn và giữ vai trò quan trọng.

Thứ ba, các hình thức CVNH phong phú: Ngày nay nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng và đòi hỏi của họ ngày càng cao do vậy các ngân hàng phải không ngừng nghiên cứu để cải tiến sản phẩm của mình có như vậy mới tồn tại trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay đồng thời cũng nhằm phân tán rủi ro. Các hình thức CVNH hiện nay gồm cho vay thấu chi, cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển.

Thứ tư, vốn vay ngắn hạn đáp ứng nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên cũng như nhu cầu vốn thời vụ cho doanh nghiệp; CVNH chủ yếu đáp

ứng nhu cầu vốn thiếu hụt trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do sự lệch pha trong quá trình lưu chuyển tiền tệ. Khách hàng thường vay khi bắt đầu vào mùa vụ và sẽ thanh toán cho ngân hàng khi cuối mùa vụ. Như vậy thời hạn cho vay chỉ là trong một chu kì sản xuất.

1.2.3. Sự cần thiết CVNH đối với DNV&N

1.2.3.1. Xuất phát từ nhu cầu vốn của DNV&N

Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp cần đầu tư vốn vào tài sản lưu động và tài sản cố định. Thông thường thì nguồn dài hạn và vốn chủ sở hữu sẽ được dùng để đầu tư vào tài sản cố định còn nguồn ngắn hạn sẽ được đầu tư cho tài sản lưu động. Về nguyên tắc doanh nghiệp nên tận dụng và huy động tất cả các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có thể tận dụng được như có thể tận dụng các khoản tín dụng thương mại hay các nguồn vay ngắn hạn của ngân hàng. Sự thiếu hụt vốn ngắn hạn là do sự chênh lệch về thời gian và doanh số giữa tiền bán hàng và tiền đầu tư vào tài sản lưu động hoặc do nhu cầu gia tăng thời vụ quyết định. Nhu vậy nhu cầu vốn của DNV&N có thể chia thành 2 loại là nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên và nhu cầu tài trợ thời vụ.

Thứ nhất, nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên: Nhu cầu này xuất phát từ sự chênh lệch hoặc không ăn khớp nhau về thời gian và quy mô giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra của DNV&N. Dòng tiền vào có được khi doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá còn khi doanh nghiệp mua nguyên vật liệu hay hàng hoá dự trữ doanh nghiệp có dòng tiền ra. Nếu dòng tiền ra lớn hơn dòng tiền vào thì doanh nghiệp cần bổ sung vốn. Nhu cầu về vốn loại này trước tiên được bù đắp bởi nguồn vốn chủ sở hữu sau đến là nguồn tín dụng thương mại. Phần còn lại doanh nghiệp sử dụng nguồn tín dụng ngân hàng. Trong khi nguồn vốn chủ sở hữu thường dùng để đầu tư cho tài sản cố định và nguồn tín dụng thương mại thường khó tiếp cận vì khi doanh nghiệp phải mua chịu hàng hoá thì họ thường chịu áp lực về giá và chất lượng hàng hoá. Do vậy nguồn vay

ngắn hạn từ ngân hàng thường dễ tiếp cận. Khi doanh nghiệp vay vốn cũng là hình thức doanh nghiệp sử dụng nợ để tạo đòn bẩy tài chính. Việc sử dụng nợ sẽ tiết kiệm được thuế cho doanh nghiệp vì chi phí lãi vay được khấu trừ trước thuế.

Thứ hai, nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ: Ngoài nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên doanh nghiệp còn có nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ. Nhu cầu thời vụ xuất phát từ đặc điểm thời vụ của doanh nghiệp khiến cho nhu cầu vốn ngắn hạn tăng đột biến. Đây chủ yếu lá các doanh nghiệp sản xuất hàng nông, lâm ngư nghiệp hoặc các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc. Vay ngắn hạn giúp doanh nghiệp mở rộng qui mô sản xuất đồng thời duy trì một cơ cấu vốn hợp lý nhằm tối đa giá trị vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.

1.2.3.2. Xuất phát từ mục tiêu quản lý của NHTM

Hoạt động cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của ngân hàng song đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Để đảm bảo trong hoạt động của mình ngân hàng cần quản lý các khoản cho vay và một trong những phương thức quản lý mà các ngân hàng thường áp dụng là quản lý thời hạn. Thời hạn là yếu tố để xác định lãi suất cho vay. CVNH thường có lãi suất thấp hơn cho vay trung và dài hạn nhưng các khoản cho vay ngắn hạn thường có thời gian thu hồi vốn nhanh và khả năng thu hồi vốn đúng hạn cao hơn cho vay trung và dài hạn. Lãi suất trong cho vay trung và dài hạn cao nhưng đây thường là các khoản tài trợ cho dự án, thời gian thu hồi vốn dài cho nên rủi ro thường cao hơn. Hơn nữa chi phí để ngân hàng huy động các khoản ngắn hạn và dài hạn là khác nhau. Do vậy lợi nhuận thu được là khác nhau. Ngân hàng cần cân nhắc giữa doanh thu, lợi nhuận và chi phí để tạo ra cơ cấu thời hạn cho vay hợp lý.Thời hạn cho vay còn liên quan đến chiến lược quản lý thanh khoản của ngân hàng. Thời hạn cho vay càng dài thì tinh thanh khoản càng kém tức là các khoản cho vay càng rủi ro. Khi tăng

khoản mục cho vay ngắn hạn thì tính thanh khoản của ngân hàng tăng lên đảm bảo cho ngân hàng hoạt động an toàn hơn.

Như vậy việc tài trợ ngắn hạn cho doanh nghiệp mang lại lợi ích cho cả hai phía doanh nghiệp và ngân hàng. Về phía doanh nghiệp việc cấp tín dụng của ngân hàng giúp doanh nghiệp bổ sung vốn thiếu hụt đảm bảo cho doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh. Về phía ngân hàng thì góp phần làm cho ngân hàng tiêu thụ được sản phẩm đồng thời mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.

1.2.4. Các phương thức cho vay ngắn hạn

1.2.4.1. Cho vay thấu chi

Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được phép chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.

Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình sử dụng khách hàng có thể kí sec, lập UNC có thể vượt quá số dư tiền gửi song không được vượt quá hạn mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản thì ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả dựa trên lãi suất thấu chi, thời gian thấu chi, số tiền thấu chi. Các khoản chi vượt qua hạn mức sẽ phải chịu lãi suất phạt và đình chỉ ngay việc sử dụng hình thức này.

Thấu chi dựa trên cơ sở sự không phù hợp về thời gian và qui mô trong quá trình thu và chi của khách hàng. Hình thức này giúp cho khách hàng có thể chủ động, nhanh, kịp thời trong việc thanh toán. Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có tài sản đảm bảo và chỉ cung cấp cho doanh nghiệp hay cá nhân vài ngày trong tháng hoặc vài tháng trong năm và chỉ cung cấp cho khách hàng có độ tin tưởng cao có chu kì thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.

1.2.4.2.Cho vay trực tiếp từng lần

Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của các ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu chỉ khi có nhu cầu vốn thời vụ mới vay ngân hàng. Tức là vốn ngân hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh.

Đặc điểm của loại cho vay này là khách hàng xin vay món nào thì phải làm hồ sơ xin vay món đó. Như vậy nếu trong một quý khách hàng có bao nhiêu món vay thì phải làm bấy nhiêu hồ sơ xin vay. Bộ phận tín dụng sẽ tiến hành phân tích hồ sơ xin vay và xem xét cho vay đối với từng hồ sơ cụ thể từ đó xem xét qui mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ và yêu cầu bảo đảm nếu cần. Trong quá trình khách hàng sử dụng khoản vay ngân hàng có thể kiểm tra mục đích và hiệu quả sử dụng món vay nếu phát hiện người vay sử dụng sai mục đích vi phạm hợp đồng đã kí kết ngân hàng có thể thu nợ trước hạn.

Hình thức này có ưu điểm là ngân hàng chủ động trong việc sử dụng vốn. Tuy nhiên hình thức này có nhiều nhược điểm là thủ tục phức tạp, tốn chi phí, thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng.

1.2.4.3. Cho vay theo hạn mức tín dụng

Đây là nghiệp vụ theo đó ngân hang thoả thuận cung cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể cấp cho cả kỳ hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.

Đặc điểm cơ bản của loại cho vay này là một hồ sơ xin vay có thể dùng cho nhiều món vay. Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần song không được vượt quá hạn mức tín dụng. Tuy nhiên có một số ngân hàng qui định hạn mức tín dụng cuối kì tức là trong kì khách hàng có thể chi vượt

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 09/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí