Tình Hình Thu Lãi Cho Vay Ngắn Hạn Trong Hoạt Động Tín Dụng

bị mất đi. Còn rất nhiều nguyên nhân khác nhưng nguyên nhân lớn nhất vẫn là từ ảnh hưởng của nền kinh tế. Qua các số liệu trên là thấy tình hình kinh doanh của chi nhánh chưa thật sự tốt, thu nhập cũng như lợi nhuận giảm, đây là một trong những vấn đề cần được tìm ra giải pháp nhằm giúp chi nhánh hoạt động tốt hơn, lợi nhuận dương trong các năm tiếp theo.

Bảng 2.16 Tình hình thu lãi cho vay ngắn hạn trong hoạt động tín dụng

Đơn vị: triệu đồng



Chỉ tiêu


2010


2011


2012

CL năm 2011 so với năm 2010

CL năm 2012 so với năm 2011

Tuyệt đối

Tương đối (%)

Tuyệt đối

Tương đối (%)

Tổng thu nhập

108.008

112.454

110.351

4.446

4,12

(2.103)

(1,87)

LN từ hoạt động cho vay

29.202

19.828

16.552

(9.374)

(32,10)

(3.306)

(16,67)

LN trước thuế

31.108

22.889

15.548

(8.219)

(26,42)

(8.341)

(36,44)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 73 trang tài liệu này.

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần đông nam á chi nhánh Hà Nội - 6

(Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà

Nội năm 2010-2012)


Bảng 2.17 Chỉ tiêu khả năng sinh lời


Chỉ tiêu

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Lãi từ hoạt động cho vay ngắn hạn (triệu đồng)

29.202

19.828

16.522

Doanh số cho vay ngắn hạn (triệu đồng)

835.512

970.684

815.983

Khả năng sinh lời (%)

3,50

2,04

2,03

(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên số liệu bảng 2.2 và 2.16)

Nhìn vào bảng kết quả khả năng sinh lời, ta thấy khả năng sinh lời giảm qua các năm. Khả năng sinh lời giảm cho thấy tình hình hoạt động kinh doanh cho vay ngắn hạn chưa thật sự tốt và Ngân hàng cần phải có hành động để tăng khả năng sinh lời trong các năm sau. Năm 2010 khả năng sinh lời là 3,5%, năm 2011 là 2,04%, năm 2012 là 2,03%. Chúng ta dễ dàng nhận thấy khả năng sinh lời qua các năm giảm

52



nguyên nhân là do doanh số cho vay cao nhưng lãi thu được từ hoạt động cho vay lại giảm, chứng tỏ tình hình thu nợ của chi nhánh không được tốt. Chi nhánh cần có các biện pháp yêu cầu các doanh nghiệp trả nợ đúng hạn, đảm bảo khả năng sinh lời cho ngân hàng.

2.4. Đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội từ năm 2010-2012

2.4.1. Kết quả đạt được

Trong 3 năm qua, Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội đã đạt được những thành tích hết sức khả quan trong hoạt động kinh doanh. Cả nguồn vốn huy động và cho vay đều đạt được những con số ấn tượng và so với mặt bằng chung thì Ngân hàng đang hoạt động tốt. Có được kết quả như trên là do trong những năm qua Ngân hàng không ngừng đổi mới và hoàn thiện mình nhằm thích nghi với môi trường kinh doanh, cụ thể:

Ngân hàng đã liên tục đổi mới các hình thức huy động trong dân cư , từng bước mở rộng mạng lưới phục vụ khách hàng bằng việc đưa thêm nhiều quỹ tiết kiệm, nhiều quầy giao dịch vào hoạt động. Mạng lưới tiết kiệm được bố trí ngày càng thuận lợi cho khách hàng muốn đến gửi tiền. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng áp dụng linh hoạt các hình thức huy động tiền gửi với các mức lãi suất phù hợp nhằm thu hút thêm khách hàng, nhờ đó mà tổng nguồn vốn huy động nói chung và nguồn vốn huy động ngắn hạn nói riêng đều tăng qua các năm.

Với chính sách lãi suất hợp lý, hấp dẫn khách hàng đến gửi tiền, Ngân hàng luôn đảm bảo duy trì mức lãi suất phù hợp với mức lãi suất Ngân hàng Nhà nước ban hành trong từng thời kỳ. Chính sách lãi suất của Ngân hàng đã điều chỉnh sát với mức quan hệ cung cầu tiền tệ như tỷ lệ lạm phát thực tế trên thị trường. Do vậy, Ngân hàng giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay.

Ngân hàng cũng đã đưa ra nhiều chương trình tuyên truyền, quảng cáo, PR nhằm giúp cho khách hàng nắm được nội dung các thủ tục, thể lệ và các ưu đãi được hưởng khi tiến hành giao dịch với Ngân hàng thường xuyên gửi tiền nhàn rỗi vào Ngân hàng.

Ngân hàng đã thực hiện triển khai một cách đồng bộ, chủ trương bám sát doanh nghiệp có phân tích kỹ những khó khăn thuận lợi của hoàn cảnh cụ thể, cũng như dự đoán những vấn đề mới có thể nảy sinh, tìm nhiều biện pháp giúp cho doanh nghiệp đầu tư đúng hướng, hạn chế rủi ro, tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp được vay vốn Ngân hàng. Nhờ đó dư nợ cho vay được tăng trưởng lành mạnh. Mặc dù doanh số cho vay có xu hướng giảm nhưng doanh số cho vay ngắn hạn vẫn ở mức cao.


53

Tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn của khu vực này luôn ở mức thấp, đảm bảo được an toàn cho Ngân hàng, giúp cho Ngân hàng có được một thế đứng vững mạnh trên thị trường. Việc mở rộng cho vay ngắn hạn nhằm sử dụng tốt nguồn vốn huy động ngắn hạn của Ngân hàng. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước chủ trương chỉ được trích 30% số vốn huy động ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, do đó việc Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội có được doanh số cho vay ngắn hạn cao trong những năm qua cho thấy đường lối đúng đắn của hệ thống quản lý Ngân hàng. Không những thế các khách hàng vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng tập trung đông ở các doanh nghiệp Nhà nước, có khả năng đảm bảo an toàn tốt các khoản vay. Đối với các khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì hình thức vốn vay chủ yếu ở vay ngắn hạn. Điều này chứng tỏ sự vững mạnh và ổn định của hình thức vay ngắn hạn đưa chất lượng tín dụng của loại hình này tăng lên một cách nhanh chóng, tạo thế cạnh tranh trong cùng hệ thống cũng như các Ngân hàng thương mại khác trên cùng địa bàn thành phố Hà Nội.

Ngân hàng cũng đã lựa chọn những cán bộ có đủ năng lực, có trách nhiệm và nhiệt tình công tác vào phòng tín dụng, tạo điều kiện giúp đỡ các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Trong quá trình cho vay, Ngân hàng đã thực hiện liên tục việc kiểm tra khách hàng trước khi cho vay, trong và sau khi cho vay. Ngoài ra Ngân hàng còn xem xét các vấn đề thị trường, sản phẩm tiêu thụ, thu nhập của khách hàng trong phạm vi cho phép. Song song với việc tăng trưởng dư nợ lành mạnh, công tác quản lý các khoản nợ rất được Ngân hàng quan tâm. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ giảm theo từng năm. Đây là một thành công lớn của Ngân hàng trong những năm qua. Điều này chứng tỏ cán bộ Ngân hàng đã hết sức nỗ lực trong công tác thu nợ, xử lý nợ quá hạn của những năm trước và cho vay có hiệu quả hơn các năm trước.

Vòng quay vốn tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn có xu hướng tăng dần nên cho thấy nguồn vốn vay của Ngân hàng đã luân chuyển nhanh hơn, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều này chứng tỏ tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng là tương đối tốt, chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao. Bên cạnh đó, nguồn thu từ hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu nhập.

2.4.2. Hạn chế và những nguyên nhân trong hoạt động tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội từ năm 2010-2012

2.4.2.1 Những hạn chế trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội từ năm 2010 – 2012

Qua đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng ngắn hạn ta thấy Ngân hàng TMCP Đông Nam Á là một Ngân hàng có chất lượng hoạt động tín dụng tốt. Tuy nhiên hoạt

54



động kinh doanh Ngân hàng không tránh khỏi những tồn tại. Vì vậy, Ngân hàng cần có những biện pháp nhằm duy trì các chỉ tiêu đồng thời xử lý những tồn tại để nâng cao chất lượng tín dụng của mình trong giai đoạn tới đó là :

Thứ nhất: Trong công tác huy động vốn mặc dù Ngân hàng đã có nhiều cố gắng nhưng hình thức huy động vốn chưa thực sự phong phú. Hình thức huy động vốn chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi của tổ chức kinh tế, hình thức huy động bằng kỳ phiếu chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn huy động.

Cơ cấu nguồn vốn tuy có nhiều cải thiện song chưa thực sự phù hợp với cơ cấu tín dụng. Nguồn vốn huy động ngắn hạn được dùng cho vay và đầu tư còn chưa tương xứng với nguồn vốn huy động, hệ số sử dụng vốn dẫn đến sự chênh lệch giữa nguồn vốn huy động và khả năng sử dụng vốn, và kết quả là lượng vốn thanh toán điều chuyển đi ngày một gia tăng.

Thứ hai: Tỷ lệ dư nợ tín dụng ngắn hạn so với tổng nguồn vốn huy động được tương đối cao, ở mức 27%(Theo thông tư số 13/2010/TT/NHNN ngày 20/05/2010 của Ngân hàng Nhà nước th ì tỷ lệ dư nợ tín dụng/vốn huy động tối đa đối với ngân hàng là 80%) tuy nhiên Ngân hàng vẫn cần phải có biện pháp để nâng tỷ lệ này cao hơn nữa thì mới đảm bảo thu nhập cao cho Ngân hàng.

Thứ ba: Cơ cấu cho vay tuy có sự điều chỉnh giữa các thành phần kinh tế, nhưng tỷ lệ cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn chưa tăng trưởng được nhiều dư nợ đối với các thành phần kinh tế khác.

Thứ tư : Tỷ lệ nợ quá hạn mặc dù thấp tuy nhiên hầu hết nợ quá hạn tập trung ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cho vay trung dài hạn. Vì vậy Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội cần xem xét lại công tác cho vay và thu nợ đối với kinh tế ngoài quốc doanh và cho vay trung dài hạn để tìm cách giảm hơn nữa tỷ lệ nợ quá hạn, đảm bảo được kế hoạch thu nhập của mình.

Thứ năm: Quy trình cho vay tại chi nhánh có nhiều bước dẫn đến mất thời gian, trong việc thẩm định cần càng nhành càng tốt nhưng vẫn hiệu quả, tránh để khách hàng chờ lâu. Ví dụ việc thẩm định tài sản đảm bảo, nhân viên tín dụng cũng có thể thẩm định được, không nhất thiết phải qua một bộ phận thẩm định tài sản đảm bảo nữa.

Thứ sáu: Cán bộ thẩm định tín dụng cần năng động, tích cực hơn trong việc tìm kiếm khách hàng, chi nhánh cần có những buổi tập huấn, kiểm tra nghiệp vụ thường xuyên đói với nhân viên, cán bộ.


55

2.4.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế Nguyên nhân từ phía Ngân hàng Tình hình cho vay:

Vấn đề tài sản thế chấp : Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và cá thể khi vay vốn cần phải có tài sản thế chấp. Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi xin vay tại Ngân hàng yêu cầu bắt buộc phải là có tài sản thế chấp, vậy mà vẫn có trường hợp bị từ chối vay do không đủ điều kiện vay vốn. Đây là một trở ngại lớn đối với nhiều khách hàng khi muốn vay vốn tại Ngân hàng, làm hạn chế việc mở rộng tín dụng ngắn hạn với những đối tượng khách hàng này.

Quy trình nghiệp vụ tín dụng còn phụ thuộc nhiều vào đánh giá chủ quan của cán bộ tín dụng: Trên thực tế để thực hiện một món vay thì cán bộ tín dụng là người thực hiện tất cả các công đoạn, cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin về khách hàng vay vốn, phân tích đánh giá khách hàng, kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp các tài liệu do khách hàng cung cấp, phân tích tính khả thi, khả năng trả nợ của phương án sau khi thẩm định về khách hàng vay vốn và các vấn đề có liên quan đến phương án, dự án vay vốn, cán bộ tín dụng sẽ lập tờ trình, có ý kiến đề xuất về việc có cho vay hay không sau đó chuyển hồ sơ lên lãnh đạo phòng nghiệp vụ tín dụng. Nếu hồ sơ được xét duyệt cho vay, cán bộ tín dụng thông báo cho khách hàng để soạn thảo hợp đồng, theo dõi phát tiền vay, kiểm tra sử dụng vốn vay, xử lý nợ khi cần thiết. Với quy trình thẩm định như trên thì trách nhiệm của cán bộ tín dụng là quá lớn nên không tránh khỏi những sai sót. Trong quá trình phân tích đánh thông tin tài chính, công tác thẩm định mới chỉ dừng lại đơn thuần ở việc so sánh đánh giá, so sánh các chỉ tiêu hệ số kỳ này với kỳ trước chứ chưa có được hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, hay khó có được tình hình hoạt động của một đơn vị khác cùng loại hình để tiến hành so sánh. Mặc dù Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội đã đưa ra một số các định mức để cán bộ tín dụng tiến hành đánh giá trong quá trình phân tích hệ số tài chính song các định mức này được thực hiện với mọi ngành nghề kinh doanh gây nên sự bất cập trong quá trình đánh giá.

Công nghệ ngân hàng: Mặc dù liên tục được đổi mới và hoàn thiện nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Nguyên nhân một phần là do ngân hàng thiếu vốn để trang bị công nghệ hiện đại đồng bộ. Từ đó dẫn đến tình trạng thanh toán trong nội bộ ngân hàng tương đối nhanh trong khi thanh toán ra bên ngoài hệ thống vẫn còn chậm. Vấn đề này đã làm giảm đáng kể nguồn vốn bằng tiền gửi vào với mục đích thanh toán của ngân hàng.

56



Tình trạng thiếu thông tin: Trước nhu cầu ngày một cao nhằm giảm rủi ro tới mức thấp nhất, cách đây vài năm, Ngân hàng Nhà nước đã thành lập trung tâm rủi ro tín dụng để cung cấp hồ sơ khách hàng. Do các doanh nghiệp nói chung đều có quan hệ với một tổ chức tín nào đó, nên khi vay họ bắt buộc phải cung cấp hồ sơ của mình như một báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh, khả năng thanh toán theo yêu cầu của Ngân hàng cho vay, sau đó Ngân hàng cho vay phải có trách nhiệm cung cấp những thông tin đó cho trung tâm rủi ro tín dụng của Ngân hàng Nhà nước. Khi Ngân hàng thương mại nào có khách hàng mới thì thông qua trung tâm rủi ro tín dụng sẽ biết được khách hàng rõ hơn. Nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, có tình hình tài chính không lành mạnh không được tiếp tục cho vay ở Ngân hàng đã quan hệ mà sang Ngân hàng khác vay thì qua trung tâm rủi ro, Ngân hàng sẽ có ngay hồ sơ của họ, như vậy sẽ tránh được rủi ro cho Ngân hàng mới. Đây là chuyển biến tích cực, phần nào đáp ứng được nhu cầu hiện nay trong nền kinh tế thị trường giúp việc nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro. Tuy vậy, những thông tin đó chưa thể đủ trong quá trình xét duyệt món vay. Thông tin mà trung tâm rủi ro tín dụng mới đưa ra các số liệu mang tính chất tĩnh, chưa có sự phân tích đánh giá mang tính chất động về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, việc thiếu thông tin thương mại về tình hình giá cả, cung cầu biến động của thị trường nên không thể lường trước các rủi ro như: Cho vay để nhập hàng rồi mới biết hàng hoá đó khó tiêu thụ ở trong nước. Như vậy trong điều kiện không nắm bắt được đầy đủ, chính xác thông tin về khách hàng cũng như các thông tin khác có liên quan thì rủi ro xảy ra là điều khó tránh khỏi.

Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp:

Hạn chế về vốn

Nước ta đang trong quá trình phát triển cho nên nhu cầu về vốn là rất lớn. Muốn phát triển thì doanh nghiệp phải có biện pháp tìm ra các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt DNNN không thể chỉ trông chờ vào Ngân sách Nhà nước cấp. Vốn tài trợ cho các dự án phần lớn vẫn là vốn vay Ngân hàng. Nếu Ngân hàng đặt lợi ích xã hội lên trên thì Ngân hàng sẽ phải đáp ứng vốn tín dụng quá khả năng nội tại của doanh nghiệp, vì thế sẽ làm mất bản chất vốn có của tín dụng là vốn bổ sung. Trong chừng mực nào đó Ngân hàng sẽ phải hạ thấp điều kiện vay vốn, khi đó vốn vay chiếm tỷ lệ cao đặt Ngân hàng vào thế không an toàn, bởi vì khoản vay có hoàn trả được hay không phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Năng lực quản lý còn hạn chế

Thực tế ở nước ta, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, không phải nhà lãnh đạo nào cũng có kiến thức và kỹ năng quản trị kinh doanh. Sự hạn chế này dẫn đến

57

khả năng tổ chức kinh doanh chưa thật sự tốt, nên việc sử dụng vốn vay ít hiệu quả, vốn Ngân hàng không trả được, tác động xấu tới chất lượng của khoản vay.

Số liệu tài chính của doanh nghiệp không trung thực

Một thực tế hiện nay là tình trạng các doanh nghiệp vay vốn luôn đối phó với các Ngân hàng thông qua việc cung cấp số liệu không trung thực, mặc dù số liệu này đã được các cơ quan có chức năng kiểm duyệt. Mặc dù chế độ kế toán đã ban hành nhưng phần lớn các doanh nghiệp đều không thực hiện nghiêm túc. Điều này gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như việc quản lý vốn vay của đơn vị. Hiện nay vốn ghi trong điều lệ của một số doanh nghiệp chỉ là hình thức, có doanh nghiệp có vốn đăng ký kinh doanh hàng tỷ đồng nhưng vốn kinh doanh thực chất lại thấp hơn rất nhiều.

Nguyên nhân từ nền kinh tế:

Tình hình kinh tế trong nước và tình hình thế giới có nhiều biến động gây bất lợi. Trong mấy năm gần đây tình hình thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng lớn đến tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng. Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường nên các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện. Sản xuất và kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập lậu và hàng ngoại nhập. Trong điều kiện này nhiều doanh nghiệp không theo kịp sự thay đổi của cơ chế và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước hoặc không điều chỉnh kịp thời nên gặp khó khăn thua lỗ trong kinh doanh.

Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường Ngân hàng

Hiện nay ở nước ta có khoảng hơn 50 Ngân hàng cùng hoạt động: Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng liên doanh: Viettin Bank, Vietcombank, BIDV, ANZ, HSBC, Standard Chartered Bank, Bắc Á Bank, Ocean Bank, Sacombank… Đó đều là các ngân hàng mạnh, nguồn lực tài chính dồi dào, chiến lược marketing tốt, hứa hẹn sẽ là đối thủ cạnh tranh mạnh của SeABank trong thời gian tới.

Môi trường pháp lý không thuận lợi

Thể lệ tín dụng là văn bản cốt lõi lại là do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành dưới dạng quyết định trong khi đó, thể lệ cho vay đối với hộ sản xuất chỉ là một bộ phận của tín dụng trung và dài hạn thì lại được ban hành dưới hình thức văn bản


58



cao hơn là Nghị định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ban hành thông tư hướng dẫn.

Các cơ quan hữu quan chưa có được cái nhìn thấu đáo về Ngân hàng và hoạt động kinh doanh tiền tệ nên chưa có được sự phối hợp đồng bộ, tích cực với Ngân hàng trong việc giải quyết những vấn đề liên quan. Cho đến nay, không ít người còn cho rằng việc cho vay và thu hồi nợ chỉ đơn thuần là việc của Ngân hàng, trong khi trên thực tế có nhiều khoản vay mà Ngân hàng đã thực hiện đúng mọi quy định của Nhà nước mà vẫn không thu hồi đủ nợ, bởi vì lúc đó nó đã vượt ra khỏi chức năng và khả năng của Ngân hàng. Mặc dù đã có nhiều thông tư liên tịch giữa Ngân hàng và các Bộ ngành liên quan hướng dẫn việc thực hiện vấn đề có liên quan đến thực hiện Ngân hàng, nhưng thực tế đòi hỏi cần có sự phối hợp nhiều hơn nữa giữa các cơ quan này với nhau trong thời gian tới.

Như vậy, hoạt động của các Ngân hàng thương mại nói chung và của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước nhà, chắc chắn chất lượng tín dụng của Ngân hàng đặc biệt là chất lượng tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội sẽ được củng cố và nâng cao, tạo được thế cạnh tranh trong toàn hệ thống Ngân hàng, thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng phát triển vững mạnh và ổn định.

Tóm lại, trong chương II khoá luận tốt nghiệp này đã đi sâu vào đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeA Bank) chi nhánh Hà Nội. Thông qua việc phân tích đánh giá các chỉ tiêu khoá luận đã chỉ ra kết quả đạt được, những nguyên nhân và các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng.

Kết luận chương 2:

Nếu như chương 1 là cơ sở lý thuyết giúp chúng ta có những hình dung nhất định về các khái niệm như tín dụng, tín dụng ngân hàng, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng thì chương 2 chúng ta đã đi sâu phân tích các chỉ tiêu để đánh giá được chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh. Lần lượt phân tích tình hình huy động vốn, tình hình sử dụng vốn, các chỉ tiêu như dư nợ, nợ quá hạn, nợ xấu… để thấy rõ được hoạt động tín dụng của chi nhánh Hà Nội trong 3 năm qua. Hoạt động tín dụng ngắn hạn của chi nhánh được đánh giá là khá tốt mặc dù tỷ lệ nợ xấu và nợ không có khả năng thu hồi tăng nhưng xét theo mặt bằng chung thì con số này vẫn là nhỏ. Từ đó chúng ta đưa ra được những thành quả cũng như hạn chế, nguyên nhân dẫn đế những hạn chế trong hoạt động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Hà Nội.

59

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐÔNG NAM Á CHI NHÁNH HÀ NỘI

3.1. Định hướng, mục tiêu phát triển của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội

Năm 2013, Chính phủ sẽ tập trung vào các giải pháp thúc đẩy nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế (cơ cấu lại nền kinh tế), nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, giảm thiểu nợ xấu, lạm phát, bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước cũng đưa ra các thông tư, văn bản nhằm giúp các doanh nghiệp cũng như các Ngân hàng hoạt động tốt hơn. Cụ thể là các Ngân hàng sẽ giảm thiểu được nợ xấu, doanh nghiệp tìm đầu ra của sản xuất kinh doanh, giảm hàng tồn kho, trả được nợ cho Ngân hàng, từ đó giúp cho nền kinh tế phục hồi dần dần, từng bước đi lên thoát khỏi khủng hoảng. Do đó nhiệm vụ của các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội nói riêng vẫn cần tiếp tục huy động vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc thẩm định hồ sơ tín dụng cần được làm cẩn thận, chặt chẽ trong các khâu, nguồn vốn huy động cần được sử dụng vào mục đích cho vay, các dự án sản xuất kinh doanh, xây dựng hiệu quả, hợp lý. Trong năm 2012 là một năm khá khó khăn với bất động sản, xây dựng, vì vậy việc cho các doanh nghiệp xây dựng vay vốn cần được sự đồng ý của lãnh đạo cấp trên trước khi có quyết định cho vay. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có những doanh nghiệp làm ăn tốt như xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, đầu tư cho giáo dục… Ngân hàng cũng nên xem xét cho những đối tượng này vay vì khả năng đem lại lợi nhuận của các ngành này ở mức tương đối ổn định.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh Ngân hàng đề ra mục tiêu chủ yếu năm 2013 như sau:

Tập trung chỉ đạo công tác kinh doanh bám sát các định hướng nhiệm vụ của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội, đưa hoạt động của chi nhánh Hà Nội đi đúng hướng đạt vượt mức mục tiêu đề ra:

Nguồn vốn tăng trưởng 15% so với năm 2012 Dư nợ tăng trưởng 10% so với năm 2012 Lợi nhuận tăng 5% so với năm 2012


60



3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội

Là một trong rất nhiều Ngân hàng đang hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội, Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội đang từng bước khẳng định vai trò của mình thông qua quá trình hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh tín dụng là một ngành kinh doanh tiềm ẩn khả năng rủi ro cao, một trong số các loại rủi ro chủ yếu và cơ bản nhất trong hoạt động của Ngân hàng là cho vay không thu hồi được nợ, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, làm giảm lợi nhuận, hạn chế tốc độ tăng trưởng dư nợ và tốc độ chu chuyển vốn, mức độ cao hơn là làm mất khả năng thanh toán của Ngân hàng. Chính vì lẽ đó, hạn chế và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh luôn là mục tiêu hàng đầu của các nhà quản trị Ngân hàng, đòi hỏi các Ngân hàng nói riêng và hệ thống Ngân hàng nói chung phải thực hiện các biện pháp nghiệp vụ hiệu quả trong kinh doanh nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng.

3.2.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh

Chiến lược kinh doanh của một Ngân hàng luôn là sự thể hiện các mục tiêu dài hạn cơ bản của Ngân hàng, sự lựa chọn đường lối hoạt động và phân bổ các nguồn lực cần thiết để đạt được các mục tiêu này. Do đó chiến lược kinh doanh là trước hết cần thiết và mang tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày càng gay gắt. Do đó cần phải có một chiến lược kinh doanh phù hợp với thực tế thị trường và khả năng của Ngân hàng.

Để theo đuổi mục tiêu này Ngân hàng nên thực hiện đồng thời các biện pháp sau:

Thứ nhất: Củng cố và phát triển khách hàng truyền thống. Khách hàng truyền thống được hiểu theo nghĩa đơn giản nhất trong Ngân hàng là những khách hàng có quan hệ tín dụng thường xuyên từ trước đến nay, giữa Ngân hàng và khách hàng có mối quan hệ khăng khít, gắn bó mật thiết lẫn nhau, hiểu rõ nhau. Hiện nay Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội đã thực hiện tốt chiến lược phát triển khách hàng truyền thống bằng các biện pháp như ưu đãi lãi suất, tặng quà nhân dịp ngày lễ, sinh nhật khách hàng… tuy nhiên chưa dừng lại tại đó, chi nhánh cần mở rộng khách hàng truyền thống không chỉ ở thành phố Hà Nội mà còn sang các tỉnh thành khác.

Do vậy, Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội cần phải tiếp tục duy trì số khách hàng truyền thống của mình bởi vì những lý do sau:



61

Thông qua mối quan hệ gắn bó giữa Ngân hàng và khách hàng từ trước đến nay, chi nhánh đã quá am hiểu về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính, cũng như năng lực quản lý… của khách hàng. Do vậy, khi phát sinh những món vay mới của khách hàng, Ngân hàng sẽ tiết kiệm được thời gian thẩm định lẫn quy trình cho vay, thời gian xét duyệt giảm xuống thúc đẩy món vay được thực hiện nhanh hơn.

Thông thường những khách hàng truyền thống thường có tài khoản tiền gửi thanh toán của mình tại Ngân hàng để tiện cho việc giao dịch. Cho nên, đây cũng là một khoản đảm bảo cho một món vay của Ngân hàng, đồng thời thông qua đó Ngân hàng có thể thu hồi hàng tháng số tiền lãi và gốc của khách hàng một cách nhanh chóng, thuận tiện, bớt tốn kém chi phí cho một tài sản có sinh lời. Mở rộng khách hàng truyền thống là những đơn vị thuộc doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội đang tập trung phát triển khối khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), năm 2012, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn chi nhánh là hơn 1.500 doanh nghiệp và không dừng lại ở đó, số lượng này sẽ tăng lên trong năm 2013 nếu chi nhánh có những biện pháp phát triển khách hàng. Việc mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế này góp phần nâng cao tỷ trọng dư nợ của thành phần này lên mức cao hơn và thông qua đó sẽ tìm kiếm được các khách hàng mới có quan hệ tốt và lâu dài sau này. Qua đó sẽ góp phần giảm những chi phí không cần thiết khác về thẩm định khách hàng, tìm kiếm thông tin liên quan khác có quan hệ với khách hàng.

Cho vay nhiều hơn mức quy định so với giá trị tài sản thế chấp, cầm cố để thu hút khách hàng. (Cho vay thêm 15% so với tổng dư nợ đối với khách hàng uy tín).

Thứ hai: Đối với khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như công ty cổ phần, công ty tư nhân… Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội cần có những chính sách cụ thể để phát huy tiềm năng của đối tượng khách hàng này. Từ ngày 16/04/2012, Ngân hàng SeABank dành riêng gói tài trợ 1.000 tỷ đồng hỗ trợ các doanh nghiệp XNK với lãi suất cho vay VNĐ giảm đến 2%/năm so với lãi suất hiện hành nhằm khuyến khích hoạt động kinh doanh, mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp. Tuy nhiên SeABank không chỉ dừng lại là hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà nên mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngồi quốc doanh khác bởi trên thực tế, số lượng khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lượng khách hàng của Ngân hàng. Mặc dù các doanh nghiệp này tiềm ẩn nhiều rủi ro cao cả từ phía nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng không phải tất cả doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều làm ăn như vậy, có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có lãi hoàn trả đầy đủ các món vay của Ngân hàng. Chính vì vậy, nhiệm vụ


62



trước mắt đặt ra cho Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội là mở rộng hình thức cho vay ngắn hạn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

Thứ ba: Mở rộng có chọn lọc đối với khách hàng mới. Ngân hàng cần tích cực bằng mọi biện pháp để thu hút khách hàng thuộc khu vực Nhà nước để cho vay khép kín với chu trình sản xuất. Hiện nay số lượng khách hàng của chi nhánh Hà Nội thuộc doanh nghiệp Nhà nước không nhiều vì vậy chi nhánh cần có biện pháp để thu hút đối tượng khách hàng này hơn nữa.

3.2.2. Đa dạng hóa hình thức huy động vốn

Bất cứ một tổ chức kinh tế nào muốn hoạt động đều phải có vốn, đặc biệt với một Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, chủ yếu đi vay để cho vay, do đó nguồn vốn huy động là rất quan trọng. Ngân hàng cần có các biện pháp tích cực để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế. Đây là hoạt động đầu tiên, là nền tảng để thực hiện các nghiệp vụ khác như hoạt động thanh toán, hoạt động tín dụng… Khi có nguồn vốn dồi dào thì khả năng mở rộng tín dụng của Ngân hàng mới thực hiện được, từ đó đem lại thu nhập cho Ngân hàng.

Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội có thể áp dụng các biện pháp đẩy mạnh công tác huy động vốn như sau :

Đối với tiền gửi doanh nghiệp:

Ngân hàng cần phải nâng cao hiệu quả nhanh chóng, an toàn của các công cụ thanh toán để hấp dẫn việc thanh toán qua Ngân hàng đối với khách hàng. Đồng thời khuyến khích khách hàng chuyển qua sử dụng hình thức thanh toán bằng séc hoặc thẻ thanh toán. Qua đó vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vừa tạo điều kiện cho Ngân hàng thu hút thêm được vốn tiền gửi.

Đối với tiền gửi tiết kiệm:

Đa dạng hoá các hình thức huy động: Ngoài tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn Ngân hàng TMCP Đông Nam Á chi nhánh Hà Nội đang có những hình thức huy động khác như: tiết kiệm điện tử, tiết kiệm tại nhà, tiết kiệm cha con… Ngân hàng cần tiếp tục đa dạng hoá tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn bằng việc định ra nhiều kỳ hạn khác nữa như: 1 tuần, 2 tuần, ….nếu như khách hàng có nhu cầu và ứng với mỗi loại kỳ hạn Ngân hàng cần xác định được mức lãi suất huy động phù hợp để có thể hấp dẫn khách hàng. Bên cạnh đó Ngân hàng thường xuyên đưa ra nhưng chương trình marketing nhằm thu hút người dân đến gửi tiền như: với mỗi hạn mức tiền gửi nhất định, khách hàng sẽ được tặng một món quà thay cho lời cảm ơn của Ngân hàng đến khách hàng,


63

Xem tất cả 73 trang.

Ngày đăng: 17/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí