Nhựt và cộng sự (2014) trong nghiên cứu của mình đã xác định: trong môi trường cạnh tranh ngân hàng khốc liệt, khách hàng đã trở thành nhân tố quyết định sự tồn tại của ngân hàng. Ngân hàng nào dành được mối quan tâm và sự trung thành của khách hàng thì ngân hàng đó sẽ thắng lợi và phát triển. Vì thế, các ngân hàng luôn tìm mọi cách để làm thế nào đem đến sự hài lòng cao nhất cho khách hàng khi sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng họ, đó cũng là kênh hiệu quả góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Dịch vụ khách hàng hoàn hảo đã và đang trở thành vũ khí cạnh tranh mang tính chiến lược của các ngân hàng, cho nên các ngân hàng luôn chạy đua nhau về chất lượng dịch vụ cả về quy mô phát triển, tiềm lực về vốn, bề rộng hệ thống mạng lưới. Một ngân hàng có thể duy trì được chất lượng dịch vụ cao thì ngân hàng đó có thể tạo ra lợi nhuận, giảm chi phí và tăng thị phần. Chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có những yếu tố như: hệ thống phân phối và quy trình giao dịch thuận tiện, hiệu quả như hồ sơ vay vốn rõ ràng, dễ hiểu và ngân hàng luôn cung cấp sản phẩm cho vay một cách nhanh chóng,... thì đó chính là một biểu hiện của một dịch vụ tốt. Mọi cử chỉ, tác phong, hành động của nhân viên ngân hàng đều nằm trong mắt của khách hàng và thực tế khách hàng thường đánh giá ngân hàng qua nhân viên của ngân hàng đó. Nhóm tác giả đã đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng đối với các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín (Vietbank) chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Sóc Trăng. Số liệu được thu thập thông qua việc phỏng vấn trực tiếp 323 khách hàng. Dữ liệu thu thập được tiến hành phân tích bằng phần mềm SPSS, sau khi phân tích chỉ số Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), các nhân tố liên quan được đưa vào mô hình hồi quy Binary Logistic để đánh giá sự hài lòng của khách hàng khi đến giao dịch với Vietbank. Kết quả phân tích cho thấy sự hài lòng của khách hàng phần lớn phụ thuộc vào cơ sở vật chất, năng lực phục vụ, tin cậy, đáp ứng và giá cả.
Có sự tương đồng về phương pháp nghiên cứu của Quan Minh Nhựt và cộng sự (2014), “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới tiếp cận tín dụng tiêu dùng ở Ngân hàng thương mại của hộ gia đình trên địa bàn Thành Phố Cần Thơ” của nhóm tác giả Trần Ái Kết và cộng sự (2013) cũng đã sử dụng mô hình Probit để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng tiêu dùng ở ngân hàng thương mại của hộ gia đình, đồng thời thông qua mô hình hồi quy Tobit để xác định các yếu tố ảnh hưởng tới lượng vốn tín dụng tiêu dùng của hộ gia đình ở Thành phố Cần Thơ. Nguyễn Quốc Nghi (2014), trong nghiên cứu của mình cũng đã xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của nông hộ đối với các chi nhánh ngân hàng cấp huyện ở huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh. Số liệu của nghiên cứu được thu thập từ cuộc khảo sát trực tiếp 198
nông hộ là khách hàng của các chi nhánh ngân hàng cấp huyện ở huyện Tiểu Cần. Kết hợp phân tích nhân tố khám phá (EFA) và hồi qui tuyến tính đa biến, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra bốn nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của nông hộ đối với các chi nhánh ngân hàng cấp huyện là sự tin cậy và đảm bảo, sự đáp ứng, sự cảm thông, phương tiện hữu hình. Trong đó, nhân tố sự tin cậy và đảm bảo có ảnh hưởng mạnh nhất đến mức độ hài lòng của nông hộ đối với các chi nhánh ngân hàng cấp huyện.
Võ Đức Toàn (2012), Trương Quang Thông (2010), Nguyễn Văn Lê (2014)… trong nghiên cứu của mình có sự tương đồng khá lớn khi đề cập đến quy trình, nguyên tắc cho vay với các DNN&V của các ngân hàng thương mại, các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động này của ngân hàng thương mại và vai trò của nguồn vốn vay này với các DNN&V. Nhằm đảm bảo hoạt động cho vay được tiến hành một cách khoa học theo một trình tự hợp lý, trên cơ sở đó hạn chế tối đa rủi ro khi cấp tín dụng, tiết kiệm thời gian, chi phí, tránh phiền hà… các ngân hàng thương mại thường xây dựng qui trình cho vay. Trên thực tế, mỗi ngân hàng thương mại có thể xây dựng cho mình một quy trình cho vay riêng, phù hợp với đặc điểm tình hình của mình. Tuy nhiên, về cơ bản nội dung của qui trình cấp tín dụng bao gồm bảy bước chủ yếu:
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ tín dụng, khách hàng có nhu cầu vay lập bộ hồ sơ đề nghị ngân hàng phục vụ mình xem xét đáp ứng nhu cầu vay vốn của mình.
Bước 2: Thẩm định hồ sơ tín dụng, đây là bước có ý nghĩa rất quan trọng để ngân hàng có thể đi đến quyết định có cho khách hàng vay hay không? Mức cho vay bao nhiêu? Thời hạn cho vay bao lâu, lãi suất bao nhiêu?…
Bước 3: Ra quyết định tín dụng, với những kết quả sau khi thẩm định và phân tích tín dụng, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hay từ chối cho vay đối với hồ sơ vay vốn của khách hàng đã được thẩm định.
Bước 4: Giải ngân, sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết giữa ngân hàng và khách hàng, việc giải ngân cho khách hàng vay được ngân hàng thực thi theo điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng.
Có thể bạn quan tâm!
- Vai trò hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần đối với phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Nghệ An - 1
- Vai trò hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần đối với phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Nghệ An - 2
- Một Số Nghiên Cứu Về Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Vai Trò Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đối Với Sự Phát Triển Của Dnn&v
- Phương Pháp Thu Thập Số Liệu, Xác Định Quy Mô Mẫu Phiếu Và Thiết Kế Nội Dung Phiếu Điều Tra, Phỏng Vấn
- Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
- Phân Loại Dnn&v Theo Khu Vực Kinh Tế Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
Bước 5: Kiểm tra sử dụng vốn vay, kiểm tra sử dụng vốn vay nhằm phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc giá trị tài sản đảm bảo không còn đủ đáp ứng yêu cầu.
Bước 6: Đôn đốc thu hồi nợ, căn cứ kỳ hạn trả nợ đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, cán bộ tín dụng nhắc nhở khách hàng để có thể thực hiện thu hồi nợ theo đúng kỳ hạn thỏa thuận.
Bước 7: Thanh lý hợp đồng tín dụng, kết thúc thời hạn hợp đồng, ngân hàng và khách hàng cùng xem xét kết quả thực hiện từng điều khoản hợp đồng đã được thỏa thuận giữa hai bên.
Trong các nghiên cứu đó, các tác giả cũng đã xem xét tới vai trò của tín dụng với sự phát triển của các DNN&V khi tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ các DNN&V phát triển, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, bất cứ ai cũng muốn đồng vốn của mình sinh lời, những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó để kiếm lãi, còn những nhà doanh nghiệp cũng vì mục đích sinh lợi của vốn mà cần vay thêm tiền để mở rộng sản xuất. Với tư cách là trung gian dẫn vốn, ngân hàng đã giải quyết mâu thuẫn đó. Với hoạt động đi vay để cho vay, ngân hàng đã tạo cơ hội cho các chủ DNN&V muốn mở rộng sản xuất kinh doanh hay thực hiện một dự án kinh doanh có thể vay vốn để thực hiện. Tín dụng ngân hàng tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển của các DNN&V, tín dụng ngân hàng luôn chuyển hướng đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn chế hoặc không đầu tư vào những DNN&V có tỷ suất lợi nhuận thấp. Qua đó tín dụng ngân hàng làm thay đổi quan hệ về cung - cầu hàng hoá và thay đổi cơ cấu ngành nghề kinh tế. Các nghiên cứu trước đó cũng chỉ ra rằng, tín dụng ngân hàng góp phần tăng nguồn vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNN&V. Một trong những quy luật khách quan của cơ chế thị trường là cạnh tranh và quy luật này ngày càng quan trọng, quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nói chung và DNN&V nói riêng. Tuy nhiên do những đặc điểm, tính chất của mình, DNN&V gặp không ít những khó khăn trong việc phát triển tạo thị phần, tạo niềm tin, tạo hình ảnh trong khi vị thế của các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước đã ổn định và có chỗ đứng trên thị trường, vì vậy xu hướng hiện nay của các DNN&V là tìm cách liên doanh, liên kết nhằm bổ sung và hoàn thiện những hạn chế của mình, đặc biệt là hạn chế về vốn. Mặc dù vậy, để đầu tư phát triển lớn, liên doanh, liên kết thôi chưa đủ vì vốn tự có thường hạn hẹp, khả năng tích tụ thấp cần mất nhiều năm mới có thể có được đủ vốn nhưng khi đó cơ hội làm ăn có thể không còn nữa. Do đó, các DNN&V thường xuyên tìm cách huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế, trong đó chủ yếu là nguồn tín dụng ngân hàng. Khi vốn được giải ngân, sức mạnh tài chính của DNN&V tăng lên thì các DNN&V cũng có cơ hội thực hiện được mục đích của mình, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường, tạo thế cạnh tranh. Trong nghiên cứu của các tác giả cũng chỉ rõ vai trò tạo điều kiện giúp các DNN&V tiếp cận các nguồn vốn nước ngoài từ nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Thật vậy, khi các doanh nghiệp vay được vốn tín dụng của các ngân hàng, họ có thể thu hút nguồn vốn từ các đơn vị, doanh nghiệp nước ngoài dưới nhiều hình thức như vay bằng tiền, bảo lãnh mua thiết bị… bằng việc các doanh nghiệp này thực hiện các dự án kinh doanh đã được hỗ trợ từ các ngân hàng thông qua các khoản tín dụng. Tín dụng ngân hàng góp phần giúp các DNN&V nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng với cơ chế hoạt động cơ bản là “đi vay để cho vay”; “vay có hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn gốc và có lãi”; nếu quá hạn phải chịu lãi suất cao, đã thúc đẩy các DNN&V nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn. Kết quả nghiên cứu của Võ Đức Toàn (2012) và Nguyễn Quốc Nghi (2011) cho thấy rằng, các DNN&V có thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại đều có xu hướng hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn so với các doanh nghiệp khác không có khả năng tiếp cận nguồn tín dụng này. Để có tiền cho các DNN&V vay, ngân hàng phải tiến hành huy động vốn và có quy định thời hạn trả vốn rõ ràng, như vậy ngân hàng cũng phải cân đối giữa nguồn huy động và nguồn cho vay sao cho phù hợp, đảm bảo tính thanh khoản cho ngân hàng. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng đã cân nhắc nguồn có khả năng giải ngân, và thời hạn cần thiết để thu hồi vốn. Cho nên đến thời hạn trả nợ, dù DNN&V làm ăn có lãi hay không cũng phải thực hiện nhiệm vụ trả nợ của mình. Do đó bắt buộc hoạt động kinh doanh của DNN&V phải sinh lời. Thêm vào đó, khi cho vay ngân hàng thường xuyên kiểm tra tình hình kinh doanh cũng như tình hình tài chính của DNN&V và họ chỉ cho vay những DNN&V có kết quả kinh doanh tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, đảm bảo có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Yếu tố này thúc đẩy các DNN&V cần quan tâm hơn nữa đến hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng vòng quay vốn tạo điều kiện nâng cao khả năng tối đa hoá lợi nhuận của các DNN&V. Mặt khác, thông qua cho vay, vốn tín dụng được cung cấp kịp thời tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh và nâng cao trách nhiệm sử dụng vốn của các DNN&V. Việc quản lý vốn thông qua quá trình hạch toán kinh tế góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh tế trong các DNN&V thêm vững chắc.
Vốn tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao trình độ công nghệ khoa học, chất lượng và mẫu mã sản phẩm, theo Võ Đức Toàn (2012), với đặc điểm nguồn vốn thấp, các DNN&V khó đầu tư được công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại để cải thiện chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ ngân hàng có thể coi là nguồn quan trọng để DNN&V thực hiện được nhu cầu này.
Khi xem xét tới các nhân tố ảnh hưởng của hoạt động tín dụng của ngân hàng với các DNN&V Võ Đức Toàn (2012), Nguyễn Văn Lê (2014) còn chỉ ra những nhóm
nhân tố: từ môi trường chính trị, pháp lý, kinh tế xã hội, các chính sách hỗ trợ phát triển các DNN&V của chính quyền với các DNN&V đến bản thân năng lực của các DNN&V này. Khi năng lực tài chính của các DNN&V ở Việt Nam thường gặp khó khăn, doanh nghiệp thuộc dạng siêu nhỏ thì càng gặp khó khăn về tài chính trầm trọng hơn, vì các doanh nghiệp này đa số là hoạt động kinh doanh từ nguồn vốn tự có là chính, hầu hết các doanh nghiệp này đều không có nhiều tài sản nên việc tiếp cận với nguồn vốn bên ngoài gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là nguồn vốn ngân hàng. Trong thời kỳ hội nhập như ngày nay, việc thiếu vốn sẽ gặp nhiều khó khăn trong các vấn đề về cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh, thu hút nhân viên giỏi… Như vậy, chỉ cần có một sự biến động trên thị trường như có một sản phẩm cùng loại của một công ty nước ngoài nào đó xâm nhập vào thị trường Việt Nam chất lượng tốt hơn và giá bán thì thấp, sẽ có thể dẫn đến việc thâu tóm, sáp nhập hoặc phá sản của doanh nghiệp.
Thêm vào đó là năng lực tổ chức quản lý: các chủ doanh nghiệp thường là những kỹ sư hoặc kỹ thuật viên tự đứng ra thành lập và vận hành doanh nghiệp. Họ vừa là người quản lý doanh nghiệp, vừa tham gia trực tiếp vào sản xuất nên mức độ chuyên môn trong quản lý không cao. Đôi khi, việc tách bạch giữa các bộ phận không rõ ràng, những người quản lý các bộ phận cũng thường tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Phần lớn những người chủ doanh nghiệp đều không được đào tạo qua một khóa quản lý chính quy nào, thậm chí có người còn chưa qua một khóa đào tạo nào, theo nghiên cứu củaVõ Đức Toàn (2012).
Bên cạnh đó, năng lực sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp, năng lực phát triển thị trường, và các chính sách của các ngân hàng thương mại cũng được các tác giả đề cấp đến khi nhắc đến những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cho vay vốn của các ngân hàng thương mại tới các DNN&V.
Liên quan đến năng lực cho vay của các ngân hàng thương mại Võ Đức Toàn (2012), Trương Quang Thông (2010) cho rằng: khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại với các DNN&V phụ thuộc vào khả năng huy động vốn của NHTMCP: Huy động vốn là quá trình ngân hàng thương mại cổ phần nhận tiền gửi của tổ chức và cá nhân dưới các hình thức nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá…, tiền vay của NHNN và các NHTMCP khác. Năng lực huy động vốn của một NHTMCP là khả năng tạo lập và phát triển nguồn vốn nhằm phục vụ cho nhu cầu sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong đó chủ yếu là hoạt động cho vay. Do vậy năng lực huy động vốn của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các khách hàng, sự phù hợp giữa các kì hạn huy động vốn với các kì hạn cho vay, từ đó ảnh hưởng tới tăng trưởng
tín dụng của ngân hàng. Khả năng huy động vốn của các ngân hàng càng tốt, khả năng các DNN&V được tiếp cận và vay vốn từ các ngân hàng thương mại càng cao. Bên cạnh đó là năng lực thẩm định dự án vay vốn của NHTMCP: Trong mọi nguồn lực, nguồn nhân lực là yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến thành công của hoạt động kinh doanh. Năng lực, trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ thẩm định dự án vay vốn của NHTMCP quyết định rất lớn tới sự thành công trong hoạt động cho vay của NHTMCP đặc biệt là đối với các DNN&V, bởi nhu cầu của nhóm khách hàng này thường nhỏ nhưng đa dạng, đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải nắm chắc nghiệp vụ, am hiểu pháp luật, thị trường, kĩ năng giao tiếp tốt, có khả năng tổng hợp thông tin và đánh giá khách hàng, từ đó thẩm định khách hàng chính xác sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro về tín dụng. Năng lực bộ máy quản lý của NHTMCP cũng được nhắc tới như là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng vay được vốn của các DNN&V từ ngân hàng thương mại cổ phần. Vấn đề then chốt trong quản trị điều hành của các NHTMCP chính là cách xác định hướng hoạt động của ngân hàng, đặt ra mục tiêu chiến lược, các kế hoạch phải thực hiện và phương thức thực hiện như thế nào. Ngân hàng sẽ thực sự kinh doanh vì lợi nhuận hay vẫn tiếp tục có một phần hoạt động với tư cách là ngân hàng chính sách chịu sự tác động của các cấp chính quyền về việc cho vay. Hay nói cách khác, ban lãnh đạo ngân hà ng có thực sự được chịu trách nhiệm và phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của ngân hàng hay không? Năng lực quản lý của các nhà lãnh đạo ngân hàng sẽ quyết định các chính sách về phát triển của ngân hàng như chiến lược phát triển dài hạn, chính sách đầu tư, chính sách huy động vốn, chính sách khách hàng, chính sách đầu tư và con người, cơ sở vật chất, công nghệ. Số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác cho vay của NHTMCP: Vấn đề then chốt có tính quyết định trong đổi mới phương thức quản lý là con người. Theo quan điểm của tác giả, cần có chính sách đào tạo lại cán bộ quản lý các cấp và cả cán bộ quản lý cấp cao để nhanh chóng tiếp cận được với các phương thức quản trị ngân hàng hiện đại. Đồng thời, có các chính sách thu hút nhân tài và đào tạo nguồn nhân lực.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần cũng được xem xét tới khi nghiên cứu về khả năng cho vay vốn của ngân hàng thương mại cổ phần với các DNN&V, tác giả Liễu Thu Trúc và cộng sự (2012) đã sử dụng phương pháp ước lượng tổng năng suất nhân tố TFP theo chỉ số Tornqvist để phân tích trong nghiên cứu này, với dữ liệu được lấy từ báo cáo thường niên của 22 ngân hàng thương mại cổ phần trong giai đoạn 2006-2009, dựa trên nguyên tắc ngân hàng là các tổ chức tài chính huy động, phân bổ các nguồn vốn cho vay vá các tài sản khác, các
khoản chi phí để duy trì hoạt động được xem là đầu vào trong quá trình tạo ra thu nhập
- đầu ra trong hoạt động kinh doanh. Các biến đầu vào và đầu ra đưa vào mô hình đều đã bao gồm yếu tố giá nên trong quá trình xử lý bằng phần mềm, tất cả các yếu tố giá sẽ được tác giả giả định là không đổi. Hiệu quả hoạt động được tác giả xem xét ở đây là hiệu quả kinh tế và hiệu quả theo quy mô. Trong đó hiệu quả kinh tế bao gồm hiệu quả kỹ thuật (TE) và hiệu quả phân bổ (AE), hai chỉ tiêu này phản ánh khả năng của ngân hàng sử dụng các đầu vào theo các tỷ lệ tối ưu, tích số của hai độ đo này tạo ra độ đo hiệu quả kinh tế (CE). Nghiên cứu cũng phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn 2006-2009, kết quả chỉ ra rằng hiệu quả hoạt động đang suy giảm và nguyên nhân chính là do yếu tố phi hiệu quả về mặt công nghệ. Những ngân hàng quy mô lớn có lợithế về chi phí hơn hẳn các ngân hàng có quy mô nhỏ, Các ngân hàng còn sử dụng lãng phí các đầu vào khoảng 7,7% và số lượng các ngân hàng đối mặt với hiệu suất giảm dần theo quy mô có xu hướng ngày càng ít đi.
Tác giả Nguyễn Việt Hùng (2008) phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong đó làm rõ cơ sở lý luận và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại, sử dụng phương pháp tiếp cận tham số SFA và phương pháp DEA nhằm đo lường hiệu quả và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Tác giả Lê Thị Thanh Hà (2004) tập trung phân tích mối quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp tại Việt Nam, trên cơ sở phân tích thực trạng đó tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện mối quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp
Khi xem xét đến vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, tác giả Lê Ngọc Lân (2011) đã trình bày những lý luận và một số kinh nghiệm quốc tế về quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng ngân hàng, thực trạng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Thêm vào đó, luận án cũng làm sáng tổ các luận cứ khoa học về hiệu quả quản lý của ngân hàng trung ương với hoạt động của các ngân hàng thương mại, làm rõ việc nâng cao hiệu quả quản lý của ngân hàng nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, phân tích thực trạng hoạt động quản lý của ngân hàng nhà nước với các ngân hàng thương mại để từ đó có thể đề xuất một sô kiến nghị nhằm cải thiện và
nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý của ngân hàng nhà nước với các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
1.1.3. Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu vai trò hoạt động cho vay của
NHTMCP đối với phát triển của DNN&V
Nhìn chung, liên quan đến DNN&V, tín dụng của ngân hàng với DNN&V không chỉ được sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý thực tế mà còn được sự quan tâm các nhà khoa học,… Tuy nhiên, những nghiên cứu này đang dừng lại ở việc xem xét thực trạng phát triển của các DNN&V trên phạm vi toàn quốc, hay ở các quốc gia khác nhau. Một số nghiên cứu được thực hiện cho các DNN&V ở phạm vi các tỉnh, nhưng được thực hiện tại các tỉnh Phía Nam và các tỉnh thuộc Đồng bằng Sông cửu long, những nghiên cứu này chủ yếu xem xét dưới góc độ tìm hiểu nhu cầu của các doanh nghiệp, đánh giá của các doanh nghiệp về khả năng đáp về vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại tới sự phát triển của các doanh nghiệp, khả năng tiếp cận nguồn vốn này của các doanh nghiệp thông qua dữ liệu thống kê và điều tra các doanh nghiệp.
Các nghiên cứu đã công bố có sự đồng nhất khá lớn trong các quan điểm liên quan đến DNN&V, vai trò của DNN&V với sự phát triển của nền kinh tế, với xã hội, các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng của các ngân hàng với các DNN&V trong đó những yếu tố về thể chế, chính sách, năng lực cho vay của ngân hàng thương mại, năng lực sử dụng vốn vay của bản thân doanh nghiệp cũng đã được đề cập tới. Qua số liệu thu thập đó, các tác giả đã xây dựng khuyến nghị nhằm giúp các DNN&V phát triển dưới sự hỗ trợ của các nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Tuy vậy, mức độ cụ thể vai trò của cho vay của NHTM đối với phát triển của các DNN&V của các nghiên cứu đã có vẫn còn hạn hẹp. Hoạt động cho vay của NHTM có tác động đến sự biến đổi về quy mô, tốc độ phát triển, đến sự thay đổi cơ cấu cũng như nâng cao hiệu quả của DNN&V như thế nào? Những nguyên nhân chủ yếu nào dẫn đến những tác động đó? Ảnh hưởng của môi trường thể chế, của năng lực cho vay của NHTM và năng lực sử dụng vốn của DNN&V có tác động thế nào đến nâng cao vai trò cho vay của NHTM đối với sự phát triển của DNN&V? Làm thế nào để nâng cao tác động tích cực của hoạt động cho vay của NHTM đến sự phát triển của DNN&V?
Chủ đề vai trò hoạt động cho vay của các NHTMCP đối với phát triển của các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (CN&XD) mà tác giả lựa chọn cho nghiên cứu này nhằm góp phần trả lời cho những câu hỏi đó.