Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần


nhiệm kiểm soát việc tuân thủ quy định pháp luật, đồng thời công nhận tính hợp pháp của các giao dịch cho vay, quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản và xét xử giải quyết tranh chấp.

Tuỳ theo mỗi hình thức cho vay mà các chủ thể trên có liên đới tham gia với mức độ nhất định hoặc không tham gia vào hình thức cho vay nào đó, kết quả những tác động qua lại giữa các bên là hợp đồng cho vay (hơp đồng tín dụng).

2.1.1.3. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần

Thứ nhất, đặc điểm của NHTMCP

NHTMCP là một trong những loại hình của NHTM nhưng dưới sở hữu của các cổ đông, NHTM đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.

Có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ở Mỹ NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.

Theo đạo luật ngân hàng của Pháp (1941): “NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.

Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16/06/2010, định nghĩa: NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán đồng thời, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. Khái niệm về NHTM đang có sự thay đổi vì sự pha trộn của các hoạt động truyền thống của ngân hàng với các trung gian tài chính khác.

Các NHTMCP thực hiện các hoạt động: huy động vốn; hoạt động tín dụng; hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ và các hoạt động khác như: Hoạt động góp vốn đầu tư, tham gia thị trường tiền tệ, hoạt động ủy thác và đại lý liên quan đến hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh dịch vụ chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm…


Thứ hai, đặc điểm hoạt động cho vay của NHTMCP

Cũng như hoạt động cho vay nói chung, hoạt động cho vay của NHTMCP là một hình thức cấp tín dụng, theo đó NHTMCP giao cho người vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoản trả cả gốc và lãi

i) Các loại cho vay của NHTMCP

Căn cứ vào thời hạn cho vay: có cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn Cho vay ngắn hạn: loại cho vay có thời hạn cho vay đến một năm, được sử

dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu

ngắn hạn của cá nhân.

Cho vay trung, dài hạn: loại cho vay có thời hạn cho vay hơn một năm, chủ yếu sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng thiết bị sản xuất kinh doanh, xây dựng dự án kinh doanh, xây dựng nhà ở, mua phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng xí nghiệp mới. Trong nông nghiệp, cho vay trung dài hạn chủ yếu đầu tư vào các đối tượng: mua máy cày, máy xay sát, xây dựng hệ thống mương tưới, cải tạo vườn tạp…

Căn cứ vào mục đích cho vay: Bao gồm: tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa và tín dụng tiêu dùng.

Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa là việc cấp cho các chủ thể kinh doanh nhằm hỗ trợ mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa

Tín dụng tiêu dùng là cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân

Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng cho vay: Bao gồm cho vay không bảo đảm và cho vay có bảo đảm

Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc không cần sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng xin vay. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần có sự bảo đảm về nguồn thu nợ bổ sung.

Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng trên cơ sở người vay phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với các khách hàng không được đánh giá tốt về năng lực tài chính và các yếu tố khác, không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có sự bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ để ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai bổ sung cho nguồn thu thứ nhất thiếu chắc chắn.


Căn cứ vào đối tượng dùng để cấp tín dụng có cho vay bằng tiền và cho vay bằng tài sản

Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là loại hình cho vay chủ yếu của các ngân hàng và thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau như: tín dụng ứng trước, tín dụng th ời vụ, tín dụng trả góp...

Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay tài sản phổ biến và đa dạng, đối với ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến là hình thức tài trợ thuê mua. Theo phươ ng thức cho vay này, ngân hàng hoặc công ty thuê mua (công ty con của ngân hàng) cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay và được gọi là người đi thuê, theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi.

Căn cứ vào phương pháp hoàn trả có cho vay trả góp và cho vay phi trả góp

Cho vay trả góp là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng cho vay bất động sản nhà ở, vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ có thu nhập thường xuyên. Cho vay phi trả góp là cho vay được thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thỏa thuận.

Căn cứ phương thức cho vay có cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay từng lần; cho vay theo hạn mức thấu chi; cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng; cho vay hợp vốn; chiết khấu chứng từ có giá; bảo lãnh ngân hàng và bao thanh toán

Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là số dư nợ cho vay cao nhất mà ngân hàng cam kết sẽ thực hiện cho một khách hàng, có hiệu lực trong một thời gian nhất định, thường là một năm, hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở nhu cầu vay vốn của khách hàng và khả năng đáp ứng của ngân hàng. Khi đã được ngân hàng ấn định hạn mức tín dụng thì khách hàng được quyền vay vốn với số dư trong phạm vi của hạn mức tín dụng đó, nếu khách hàng vay trả nhiều đợt trong kỳ thì tổng số tiền cho vay có thể vượt quá hạn mức tín dụng nhiều lần, điều này càng tốt vì vòng quay vốn tín dụng gia tăng.

Cho vay theo hạn mức tín dụng có đặc điểm sau: Luân chuyển vốn tín dụng tham gia toàn bộ vào vòng quay vốn của doanh nghiệp, từ khâu dự trữ đến khâu sản xuất và lưu thông. Vốn tín dụng phát sinh theo nhu cầu của quá trình tuần hoàn luân chuyển vốn mà không phụ thuộc vào tình hình dự trữ vật tư, hàng hóa của đơn vị. Do vốn tín dụng tham gia vào toàn bộ quá trình luân chuy ển vốn của doanh nghiệp nên các thủ tục cho vay được thực hiện đơn giản dần, tạo điều kiện cho đơn vị nhận được vốn kịp thời.

Cho vay từng lần: Áp dụng cho các đơn vị tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn không thường xuyên có tính chất đột xuất, không được ấn định hạn mức tín dụng.


Cho vay từng lần có đặc điểm sau: Vốn tín dụng chỉ tham gia vào một giai đoạn hay m ột quy trình nhất định trong chu kỳ sản xuất kinh doanh, chu kỳ luân chuyển vốn của đơn vị. Về phía ngân hàng việc cho vay và thu nợ được xử lý theo từng món vay. Mỗi lần phát sinh nhu cầu vay vốn bắt buộc bên vay phải tiến hành các thủ tục làm đơn xin vay kèm theo các chứng từ hóa đơn xin vay để cán bộ tín dụng kiểm tra đối tượng vay vốn, nếu đối tượng vay vốn phù hợp sẽ giải quyết cho vay.

Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là một kỹ thuật cấp tín dụng cho khách hàng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt số dư có trên tài khoản thanh toán của khách hàng để thực hiện các giao dịch thanh toán kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Để được vay theo phươ ng thức này, khách hàng phải là những khách hàng quen biết, thường xuyên giao dịch qua ngân hàng, tình hình tài chính tương đối ổn định.

Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Thẻ tín dụng là loại thẻ ngân hàng phát hành cho những khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, hoặc rút tiền mặt tại các ATM trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp thuận trong hợp đồng tín dụng.

Cho vay hợp vốn: Là loại hình cho vay, trong đó một nhóm NHTM cùng tham gia tài trợ chung một dự án vay. Trong đó, một ngân hàng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp các ngân hàng còn lại để cùng cho vay. Loại hình này áp dụng trong trường hợp dự án có qui mô vốn lớn, vượt quá khả năng tài trợ của một ngân hàng hoặc vượt quá qui định giới hạn của luật pháp. Nó cũng được sử dụng với mục tiêu phân tán rủi ro của ngân hàng.

Chiết khấu chứng từ có giá: Ngân hàng th ương mại đứng ra trả trước các hối phiếu hoặc các chứng từ có giá khác chưa đến hạn thanh toán theo yêu cầu của người thụ hưởng bằng cách khấu trừ ngay một số tiền nhất định được gọi là chiết khấu, số tiền khấu trừ được tính theo trị giá chứng từ, thời hạn chiết khấu, lãi suất và các tỷ lệ chiết khấu khác, số tiền còn lại thanh toán cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng muốn nhận số tiền này thì bắt buộc phải làm thủ tục chuyển nhượng quyền hưởng lợi cho ngân hàng chiết khấu đối với các chứng từ xin chiết khấu, trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp sở hữu chứng từ, nhưng khi chứng từ đến hạn ngân hàng lại gửi chứng từ đi để đòi tiền người có nghĩa vụ trả tiền.

Bảo lãnh ngân hàng: Là hình thức cấp tín dụng được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản của ngân hàng với bên thụ hưởng bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình, khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên thụ hưởng bảo lãnh, khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả lại cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.

Bao thanh toán: Là nghiệp vụ tín dụng gián tiếp của ngân hàng thương mại, theo đó, ngân hàng thương mại đồng ý cung cấp tín dụng cho nhà cung cấp nếu nhà


cung cấp xuất trình một bộ chứng từ thanh toán, trên cơ sở hợp đồng th ương mại đã ký kết với bên mua. Nói cách khác, bao thanh toán là việc NHTM đứng ra trả tiền ngay cho nhà cung cấp, theo bộ chứng từ mà nhà cung cấp xuất trình. Sau đó, ngân hàng sẽ đòi tiền người mua theo hợp đồng bao thanh toán đã ký kết. Chênh lệch giữa số tiền trên chứng từ hóa đơn và số tiền ứng trước là khoản thu nhập của ngân hàng.

ii) Quy trình cho vay

Nhằm đảm bảo hoạt động cho vay được tiến hành một cách khoa học theo một trình tự hợp lý, trên cơ sở đó hạn chế tối đa rủi ro khi cấp tín dụng, tiết kiệm thời gian, chi phí, tránh phiền hà… các NHTM thường xây dựng quy trình cho vay, trên thực tế, mỗi NHTM có thể xây dựng cho mình một quy trình cho vay riêng, phù hợp với đặc điểm tình hình của mình. Tuy nhiên, về cơ bản nội dung của quy trình cấp tín dụng bao gồm bảy bước chủ yếu là Tiếp nhận hồ sơ tín dụng; Thẩm định hồ sơ tín dụng; Ra quyết định tín dụng; Giải ngân; Kiểm tra sử dụng vốn vay; Đôn đốc thu hồi nợ; và Thanh lý hợp đồng tín dụng. Mỗi khâu trong quy trình có những vị trí vai trò và nhiệm vụ riêng và việc thực hiện đúng các vị trí vai trò và nhiệm vụ đó sẽ đảm bảo hoạt động cho vay của NHTMCP đuwọc bình thường

iii) Lợi tức cho vay

Hoạt động tín dụng cũng như các họat động kinh doanh khác, ngân hàng cũng quan tâm đến lợi tức và mức độ sinh lời của đồng vốn kinh doanh, khác với các loại hình kinh doanh khác về đối tượng nên lợi tức tín dụng cũng có những nét đặt thù riêng.

Lợi tức tín dụng là khoản lợi nhuận mà tổ chức kinh doanh tín dụng thu được sau một chu trình hoạt động cho vay.

Về bản chất, lợi tức tín dụng là một phần giá trị thặng dư mà người đi vay trích ra để trả cho người cho vay vì đã sử dụng tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định

Nguồn gốc của lợi tức tín dụng chính là giá trị thặng dư đã sáng tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Người đi vay do sử dụng vốn vay của người khác trong một khoảng thời gian nhất định để kinh doanh nên phải trả tiền lãi. Người cho vay do sở hữu một khoản vốn cho vay nên được hưởng lợi tức.

Lợi tức chính là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định, lợi tức là một loại giá cả và cũng chịu tác động của qui luật cung cầu, qui luật thị trường, để đánh giá mức độ sinh lời của đồng vốn cho vay, khái niệm tỉ suất lợi tức hay còn gọi là lãi suất thường được sử dụng.


Tỉ suất lợi tức là tỉ lệ phần trăm (%) giữa tổng số lợi tức thu được với tổng số tiền cho vay được tính trong một thời gian nhất định (thường là ngày, tháng, quý, sáu tháng hay một năm).

Về nguyên tắc, lợi tức cho vay ngân hàngphải bảo đảm bù đắp đầy đủ những chi phí bỏ ra và mang lại lợi nhuận cho nhà kinh doanh nên lãi suất bao gồm những yếu tố sau:

Chi phí huy động và quản lý, thực hiện khoản cho vay. Đây là toàn bộ chi phí bỏ ra để thực hiện hoạt động cho vay bao gồm những khoản mục chủ yếu như: lãi đầu vào, chi phí về tiền lương, khấu hao tài sản cố định,... khoản chi phí này có thể cắt giảm nếu thực hiện được một sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng. Vì thế đây là khâu mấu chốt trong quá trình cạnh tranh giữa các ngân hàng.

Chi phí bù đắp rủi ro cho vay. Đó là khả năng không thu hồi được lãi hoặc cả vốn lẫn lãi của món vay. Cũng giống như mọi loại hình kinh doanh khác, hoạt động tín dụng cũng có khả năng rủi ro, thậm chí rủi ro rất cao. Vì vậy, việc tính vào trong mức lãi một tỷ lệ rủi ro để dự phòng là điều cần thiết. Rủi ro có thể do khách quan mang lại, cũng có thể do chủ quan gây ra và có thể phòng tránh được trong chừng mực nhất định. Vì vậy tùy thuộc vào năng lực của Ngân hàng mà có thể đưa tỷ lệ này đến mức thấp nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho cạnh tranh.

Lợi nhuận mong đợi từ khoản cho vay. Yếu tố cuối cùng để cấu thành một mức lãi suất hợp lý chính là yếu tố lãi ròng. Như bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào khác, hoạt động tín dụng quan tâm đến khả năng tích lũy của chính hoạt động kinh doanh của mình. Mức lãi ròng phụ thuộc vào mức sinh lợi chung của nền kinh tế. Tuy nhiên do điều kiện đặc thù mà có thể nảy sinh chênh lệch.

Để định giá của một khoản cho vay, Ngân hàng cần phải xác định được các yếu tố cấu thành nên lãi suất cho vay, trong đó 4 yếu tố quan trọng nhất là: Lãi suất phải bao gồm tất cả chi phí huy động vốn; Lãi suất phải bù đắp chi phí quản lý và thực hiện cho vay; Lãi suất phải trang trải được các loại rủi ro; Lãi suất phải có phần thặng dư cho người cho vay.

iv) Nghiệp vụ cho vay

Nghiệp vụ cho vay của các NHTM gồm nghiệp vụ hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp, nghiệp vụ hoạt động cho vay khách hàng cá nhân và chiết khấu giấy tờ có giá, trong nghiên cứu này, tác giả xem xét nghiệp vụ hoạt động cho vay khách hàng là doanh nghiệp.

Nghiệp vụ cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp bao gồm nghiệp vụ cho vay ngắn hạn, nghiệp vụ cho vay trung hạn và dài hạn, đối với mỗi nghiệp vụ cho vay có những quy định cụ thể riêng, khi thực hiện các hoạt động cho vay cán bộ ngân hàng và doanh nghiệp phải năm vững và hiểu biết để thực hiện các hoạt động vay vốn.


2.1.2. Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng

2.1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa

Doanh nghiệp có thể được hiểu một cách chung nhất là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm sản xuất, cung ứng sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ trên thị trường. Khoản 1 và 2 Điều 4 Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 thì doanh nghiệp được hiểu như sau: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.

Từ khái niệm trên chúng ta thấy: trước hết doanh nghiệp phải là chủ thể kinh tế độc lập, có hoặc không có tư cách pháp nhân, có tên gọi và hoạt động với danh nghĩa riêng, thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thị trường và chịu trách nhiệm độc lập về mọi hoạt động kinh doanh của mình. Thứ hai, tùy theo mục đích thành lập doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp có mục đích hoạt động khác nhau nhưng trừ một số ít các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích còn mục đích của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình doanh nghiệp cùng tồn tại, phát triển và cạnh tranh lẫn nhau.

Dựa vào quy mô kinh doanh người ta chia doanh nghiệp thành: Doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ. Việc quy định tiêu thức như thế nào là doanh nghiệp lớn, DNN&V là tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của từng nước trong từng giai đoạn cụ thể. Thông thường những tiêu thức được lựa chọn là: Số lượng cán bộ công nhân viên bình quân, vốn đầu tư, tổng tài sản, doanh thu tiêu thụ. Riêng ở Việt Nam hiện nay thì căn cứ vào hai tiêu thức là số lao động làm việc bình quân và tổng nguồn vốn để phân loại doanh nghiệp thành siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Việc phân loại theo tiêu thức này nhằm giúp cho Nhà nước có những chiến lược và những chính sách hợp lý nhằm hỗ trợ phát triển các DNN&V trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội cụ thể, đặc biệt là trong lúc nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn như lạm phát, khủng hoảng…

DNN&V là khái niệm tương đối đối với doanh nghiệp có quy mô lớn, phương thức phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa thường căn cứ các tiêu chuẩn như số lượng nhân viên, tổng số vốn, tổng số tài sản, thị phần của doanh nghiệp…, hoặc kết hợp một số tiêu chuẩn trên để phân loại. Do mức độ phát triển kinh tế, bối cảnh văn hóa và mục đích phân loại DNN&V của các nước khác nhau, cho dù ở cùng một quốc gia, những địa điểm hoạt động và thời điểm hoạt động khác nhau thì phươ ng pháp phân loại và chỉ tiêu phân loại cũng khác nhau. Tiêu chuẩn phân loại DNN&V phần lớn được quyết định bởi mục đích


thiết lập tiêu chuẩn, mục đích thường gặp nhất là nắm vững được tình hình hoạt động kinh doanh, kết cấu tỷ lệ của các doanh nghiệp ở các quy mô khác nhau trong nền kinh tế quốc dân đồng thời tiến hành quản lý các doanh nghiệp đó về phươ ng diện hành chính, kinh tế và pháp luật… Ở nhiều quốc gia, tiêu chuẩn phân loại DNN&V ở các ngành khác nhau cũng có những khác biệt nhất định. Dưới đây là bảng tiêu chuẩn phân định DNN&V của một số quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới:

Bảng 2.1: Tiêu chuẩn phân định DNN&V của một số nước trên thế giới


Tên

quốc gia

Tên và tiêu chuẩn phân định

Nhật Bản

DNN&V:

Ngành chế tạo: Số lượng nhân viên dưới 300 người hoặc vốn đầu tư khoảng dưới 100 triệu yên

Ngành buôn bán: Nhân viên dưới 50 người và vốn đầu tư 10 triệu yên

Braxin

Doanh nghiệp vừa: Số nhân viên từ 50-249 người

Doanh nghiệp nhỏ: Số nhân viên từ 5-49 người

Indonesia

Doanh nghiệp nhỏ: Nhân viên từ 5-19 người, vốn khoảng 70 triệu Rubi (trừ đất đai và bất động sản)

Doanh nghiệp vừa: Số nhân viên khoảng 20-29 người

Malaysia

DNN&V: Nhân viên khoảng dưới 250 người, vốn tài sản cố định hoặc tài sản

khoảng 1 triệu Ringis

Hàn Quốc

DNN&V:

Ngành chế tạo, vận tải có số lượng nhân viên khoảng dưới 300 người hoặc tài sản dưới 500 triệu Won

Ngành kiến trúc có số nhân viên dưới 50 người và tài sản dưới 500 triệu Won

Ngành thương mại, ngành dịch vụ có số nhân viên dưới 50 người và tài sản dưới 50 triệu Won

Ngành bán buôn có số nhân viên dưới 50 người hoặc tài sản dưới 200 triệu Won

Philippin

Công nghiệp quy mô vừa và nhỏ: Tổng tài sản trên 250 nghìn và dưới 1 triệu Pêsô

Công nghiệp quy mô nhỏ: Chủ doanh nghiệp chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất và có số lượng nhân viên từ 5-99 người, tổng tài sản là 100 nghìn đến 1 triệu Pêsô

Singapore

Doanh nghiệp nhỏ: Tài sản cố định dưới 5 triệu đô la Sing

Doanh nghiệp vừa: Vốn cố định từ 5-10 triệu đô la Sing

Thái Lan

Công nghiệp quy mô nhỏ: Vốn đăng ký dưới 2 triệu Bạt và dưới 50 nhân viên

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

Vai trò hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần đối với phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Nghệ An - 6

Nguồn: Viện Nghiên cứu và đào tạo về quản lý

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 06/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí