Phân Loại Dnn&v Theo Khu Vực Kinh Tế Ở Việt Nam


Theo quan niệm của Ngân hàng thế giới (WB) và Công ty tài chính quốc tế (IFC) thì DNN&V là những doanh nghiệp có qui mô vốn, lao động và doanh thu nhỏ bé. Căn cứ vào quan niệm trên, DNN&V được chia làm ba loại như sau:

Doanh nghiệp siêu nhỏ: là các doanh nghiệp có không quá 10 lao động, tổng giá trị tài sản hoặc nguồn vốn không quá 100.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 100.000 USD.

Doanh nghiệp nhỏ: là các doanh nghiệp có không quá 50 lao động, tổng giá trị tài sản hoặc nguồn vốn không quá 3.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 3.000.000 USD.

Doanh nghiệp vừa: là các doanh nghiệp có không quá 300 lao động, tổng giá trị tài sản hoặc nguồn vốn không quá 15.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 15.000.000 USD. Theo khối EU, DNN&V là những doanh nghiệp có dưới 250 nhân công và được chia thành ba loại sau:

Doanh nghiệp siêu nhỏ: có dưới 10 nhân công, doanh số 2 triệu Euro, tổng tài sản 2 triệu Euro.

Doanh nghiệp nhỏ: có từ 10 nhân công đến dưới 50 nhân công, doanh số 10 triệu Euro, tổng tài sản 10 triệu Euro.

Doanh nghiệp vừa: có từ 50 nhân công đến dưới 250 nhân công, doanh số 50 triệu Euro, tổng tài sản 43 triệu Euro.

Ở Việt Nam, tiêu chí phân loại DNN&V được quy định tại Công văn 681/CP – KTN ngày 20 tháng 6 năm 1998 của Thủ Tướng Chính Phủ. Theo quy định tại Công văn này, tiêu chí xác định DNN&V là vốn điều lệ và lao động của doanh nghiệp. Cụ thể: DNN&V là doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người.

Để khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc phát triển các DNN&V, theo điều 3 của Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển DNN&V thì DNN&V được định nghĩa như sau: DNN&V là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo định nghĩa này, các doanh nghiêp nhỏ và vừa ở Việt Nam bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ và vừa đăng ký kinh doanh theo luật Doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa được đăng ký theo luật doanh nghiệp, luật Hợp tác xã, doanh nghiệp theo hình thức hộ kinh doanh cá thể được điều chỉnh bởi quy định của Chính phủ.


Theo quỹ phát triển DNN&V (SMEDF - Small And Medium Enterprise Development Fund), là một dự án phát triển do liên minh Châu Âu tài trợ thì một doanh nghiệp tại Việt Nam được xem là DNN&V phải đáp ứng được các điều kiện: Số nhân viên từ 10 người đến 500 người; Số vốn đăng ký từ hơn 50.000 USD đến

300.000 USD. Theo Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30 tháng 06 năm 2009 về trợ giúp phát triển DNN&V và sau ngày 11 tháng 3 năm 2018 Nghị định 38/2018/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 56/2009/NĐ-CP của chính phủ, định nghĩa DNN&V: DNN&V là cơ sở kinh doanh đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), ngoài các tiêu chi trên Nghị định này còn căn cứ vào ngành hoạt động để phân loại, cụ thể được thể hiện ở bảng 1.2 như sau:

Bảng 2.2: Phân loại DNN&V theo khu vực kinh tế ở Việt Nam


Ngành

DN siêu nhỏ

Doanh nghiệp nhỏ

Doanh nghiệp vừa

Nông, lâm nghiệp và thủy

sản

không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ

đồng

không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá

20 tỷ đồng

không quá 200 người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn

không quá 100 tỷ đồng

Công nghiệp và xây dựng

không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ

đồng

không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá

20 tỷ đồng

không quá 200 người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn

không quá 100 tỷ đồng

Thương mại dịch vụ

không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ

đồng

không quá 50 người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn

không quá 50 tỷ đồng

không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn

không quá 100 tỷ đồng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

Vai trò hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần đối với phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Nghệ An - 7

Nguồn: Nghị định số 39/2018/NĐ-CP của chính phủ

Như vậy, DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng là cơ sở kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực CN&XD đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn


vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên).

2.1.2.2. Đặc điểm DNN&V trong lĩnh vực CN&XD

DNN&V trong lĩnh vực CN&XD cũng mang đầy đủ những đặc điểm của các DNN&V bên cạnh những đặc điểm riêng riêng mang tính đặc thù của lĩnh vực CN&XD. Một số đặc điểm của DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng:

Đa dạng về loại hình sở hữu: DNN&V trong lĩnh vực CN&XD tồn tại và phát triển ở mọi loại hình khác nhau như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.

Hạn chế về sản phẩm, dịch vụ và năng lực tài chính: Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực này có khối lượng sản phẩm hạn chế, chủ yếu dựa vào lao động thủ công: Các doanh nghiệp này thường chỉ kinh doanh một vài sản phẩm phù hợp với trình độ và kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp cũng như năng lực tài chính của doanh nghiệp. Phần lớn các DNN&V có nguồn tài chính hạn chế: Vốn kinh doanh của các DNN&V chủ yếu là vốn tự có của chủ sở hữu doanh nghiệp, vay mượn từ người thân, bạn bè, khả năng tiếp cận các nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng thấp.

Tính năng động và linh hoạt cao: DNN&V nói chung và DNN&V trong lĩnh vực CN&XD nói riêng có tính năng động và linh hoạt cao: Các doanh nghiệp này thường có mức đầu tư ban đầu thấp, sử dụng ít lao động và tận dụng các nguồn lực tại chỗ. Do đó, các doanh nghiệp này có thể dễ dàng chuyển đổi phương án sản xuất, chuyển đổi mặt bằng kinh doanh, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp và thậm chí dễ dàng giải thể doanh nghiệp.

Trình độ quản lý chưa cao: Bộ máy quản lý thường gọn nhẹ, trình độ tổ chức quản lý chưa cao: Các doanh nghiệp này được thành lập và hoạt động chủ yếu dựa vào năng lực và kinh nghiệm của bản thân chủ doanh nghiệp nên tổ chức bộ máy rất gọn nhẹ, các quyết định trong quản lý cũng được thực hiện nhanh chóng.

Lao động có trình độ thấp và sử dụng công nghệ cũ: Lao động trong các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD có trình độ thấp và doanh nghiệp thường sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên chất lượng sản phẩm chưa cao.

Cũng như các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD trên thế giới, với quy mô nhỏ, DNN&V trong lĩnh vực CN&XD ở Việt Nam cũng có những đặc điểm tương tự như ở các quốc gia khác . Ngoài ra, do đặc trưng riêng của nền kinh tế chuyển đổi từ nền kinh


tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD Việt Nam còn có những đặc trưng riêng. Những đặc điểm cơ bản của các DNN&V trong lĩnh vực này ở Việt Nam thể hiện như sau:

Các DNN&V ở Việt Nam thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ chức doanh nghiệp, bao gồm từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và các công ty tư nhân, trong một thời gian dài, các doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau không được đối xử bình đẳng, bị phân biệt đối xử. Điều đó ảnh hưởng đến tâm lý, phong cách kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay, đồng thời cũng tạo ra những điểm xuất phát về tiếp cận nguồn lực không như nhau (trong giao đất, trong vay vốn ngân hàng…).

Là những doanh nghiệp có quy mô vốn và lao động nhỏ, đây thường là những doanh nghiệp khởi sự thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Đặc điểm này đã làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động của mình.

Khả năng quản lý hạn chế: Các chủ doanh nghiệp thường là những lao động phổ thông, kỹ thuật viên, kỹ sư tự đứng ra thành lập và vận hành doanh nghiệp. Họ vừa là người quản lý doanh nghiệp, vừa tham gia trực tiếp vào sản xuất nên mức độ chuyên môn trong quản lý không cao. Việc tách bạch giữa các bộ phận không rõ ràng, những người quản lý các bộ phận cũng thường tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Nhiều chủ doanh nghiệp không được đào tạo quản lý chính quy, nhiều doanh nghiệp không quan tâm đến việc đào tạo để nâng cao năng lực quản lý.

Trình độ tay nghề của người lao động thấp: Các chủ doanh nghiệp thường không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê những người lao động có tay nghề cao do hạn chế về khả năng tài chính. Bên cạnh đó, định kiến của người lao động cũng như của những bạn bè, người thân của họ về khu vực này vẫn còn khá lớn vì họ cho rằng làm việc trong các doanh nghiệp này rủi ro mất việc lớn nhưng đồng thời lương thấp, không thăng tiến được… Người lao động ít được đào tạo, đào tạo lại do kinh phí hạn hẹp hoặc người chủ không muốn đào tạo người lao động vì vậy trình độ thấp và kỹ năng làm việc thấp. Ngoài ra, sự không ổn định khi làm việc, cơ hội để phát triển thấp tại các doanh nghiệp này cũng tác động làm cho nhiều lao động có kỹ năng không muốn làm việc cho khu vực này.

Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai, nhiều doanh nghiệp cho dù có những sáng kiến công nghệ nhưng không đủ tài chính cho việc nghiên cứu triển khai nên không thể hình thành công nghệ mới hoặc bị các doanh nghiệp lớn mua với giá rẻ. Tuy nhiên, các DNN&V lại rất linh hoạt trong việc thay đổi công nghệ sản xuất do giá trị của dây chuyền công nghệ thường thấp và họ


thường có những sáng kiến đổi mới công nghệ phù hợp với quy mô của mình từ những công nghệ cũ và lạc hậu. Điều này thể hiện tính linh hoạt trong đổi mới công nghệ và tạo nên sự khác biệt về sản phẩm để các doanh nghiệp này có thể tồn tại trên thị trường.

Các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD ở Việt Nam thường thuê mặt bằng với diện tích hạn chế và cách xa trung tâm hoặc sử dụng những diện tích đất riêng của mình làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, các doanh nghiệp này gặp khó khăn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh khi quy mô doanh nghiệp được mở rộng.

Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt đối với thị trường nước ngoài, nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp này thường là những doanh nghiệp mới hình thành, khả năng tài chính cho các hoạt động marketing (những việc làm để tìm hiểu khách hàng của mình là những ai, họ cần gì và muốn gì, và làm thế nào để đáp ứng nhu cầu của họ đồng thời tạo ra lợi nhuận) rất hạn chế và họ chưa có nhiều khách hàng truyền thống. Thêm vào đó, quy mô thị trường của các doanh nghiệp này thường bó hẹp trong phạm vi địa phương, việc mở rộng ra các thị trường mới là rất khó khăn.

Các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD nói riêng và các DNN&V nói chung khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, do đó họ thường sử dụng nguồn vốn vay từ bạn bè, người thân. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp này thường thiếu tài sản đảm bảo, sổ sách chứng từ kế toán không rõ ràng, minh bạch, chưa có uy tín trên thị trường.

2.1.3. Vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần đối với việc phát triển DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng

2.1.3.1. Khái niệm về vai trò hoạt động cho vay của NHTMCP đối với việc phát triển DNN&V trong lĩnh vực CN&XD

Theo Minh Thúy (1988) “vai trò là từ chỉ tính chất của sự vật, sự việc hiện tượng, dùng để nói về vị trí chức năng, nhiệm vụ, mục đích của sự vật, sự việc, hiện tượng trong một hoàn cảnh, bối cảnh và mối quan hệ nào đó

Từ vai trò thường được sử dụng để chỉ về tác dụng, chức năng của một cái gì đó, của ai đó đối với sự hoạt động, sự phát triển của cái gì, một tập thể nào đó, một tổ chức nào đó hoặc của một các gì đó. Ví dụ: Vai trò quyết định của đảng đối với sự phát triển đất nước; vai trò quyết định của người quản lý trong phát triển kinh tế, xã hội; vai trò của tác phẩm văn học đối với sự nghiệp sáng tác văn học của tác giả; Vai trò của từ đối với câu; Vai trò quyết định của người cha trong gia đình tri thức,…

Về ý nghĩa, danh từ tác dụng chỉ kết quả của một tác động. Ví dụ thể dục có tác dụng tốt cho sức khoẻ; một sáng kiến có tác dụng trong công việc. Ở khía cạn h


là một động từ, tác dụng là làm cho có những biến đổi nhất định. Ví dụ tác dụng lực vào một vật làm cho nó chuyển động (Từ điển Việt- Việt). Còn chức năng là một từ dùng để chỉ khả năng của một cái gì đó, những gì cái đó có thể làm được; nó miêu tả tính chất có thể hoạt động thuộc hoặc của sự vật được đề cập hoặc do sự vật tạo ra (vi.wiktionary.org).

Nói tóm lại, phạm trù vai trò có thể hiểu theo hai cách:i) Vai trò là kết quả của một tác động và khả năng mà tác động đó có thể làm được; ii) Vai trò cũng có thể hiểu là khả năng làm biến đổi của một cái này đối với một cái khác.

Với cách hiểu như thế, vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần đối với việc phát triển DNN&V trong lĩnh vực CN&XD cũng có thể được hiểu theo hai cách.

Theo cách hiểu thứ nhất, vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng đối với việc phát triển DNN&V trong lĩnh vực CN&XD là kết quả và khả năng cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần đối với việc phát triển DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng.

Theo cách hiểu thứ hai, vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng đối với việc phát triển DNN&V trong lĩnh vực CN&XD là khả năng hoạt động cho vay làm biến đổi, làm thay đổi sự phát triển của DNNVV trong lĩnh vực CN&XD.

Kết hợp những cách hiểu trên, tác giả cho rằng, vai trò hoạt động cho vay của NHTMCP đối với việc phát triển DNN&V trong lĩnh vực CN&XD là khả năng hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần làm biến đổi, thay đổi sự phát triển của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD.

Như vậy, thông qua việc giao cho các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoản trả cả gốc và lãi, hoạt động cho vay của NHTMCP đã làm biến đổi, thúc đẩy sự phát triển của DNN&V. Các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD có thêm vốn để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi kỹ thuật và công nghệ, đổi mới mẫu mã sản phẩm, nâng cao trình độ quản lý và trình độ kỹ thuật, tay nghề của người lao động; từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Chính điều đó thể hiện vai trò của hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của doanh nghiệp.


2.1.3.2. Đặc điểm hoạt động cho vay của NHTMCP đối với việc phát triển

DNN&V trong lĩnh vực CN&XD

Thứ nhất, hoạt động cho vay phản ánh mối quan hệ lợi ích giữa người cho vay, người đi vay và xã hội

Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần đối với DNN&V trong lĩnh vực CN&XD được cấu thành từ ba chủ thể tham gia là người cho vay, người di vay và nhà nước.

i) Người cho vay - NHTMCP: NHTMCP cho các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD vay một khoản tiền nào đó trên cơ sở hợp đồng cho vay đã được thỏa thuận các điều kiện về mức vay, thời hạn vay, lãi suất, hình thức trả gốc và lãi, tài sản đảm bảo…

ii) Người vay - các DNN&V: là các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD, có đủ điều kiện quy định tại điều 94 bộ luật dân sự. Những doanh nghiệp này có đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp này có mục đích vay vốn hợp pháp, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn giao kết, có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, và thực hiện các quy định về bảo đảm tài sản. Đây là những quy định của NHTMCP, tuy nhiên, các NHTMCP khác nhau cũng có thể cụ thể hóa các điều kiện cho từng ngân hàng

iii) Cơ quan quản lý nhà nước: Là các cơ quan công quyền như ngân hàng nhà nước, cơ quan công chứng, toà án, thuế quan… Những cơ quan này có trách nhiệm kiểm soát việc tuân thủ quy định pháp luật, đồng thời công nhận tính hợp pháp của các giao dịch cho vay, quyền sở hửu pháp lý đối với tài sản và xét xử giải quyết tranh chấp.

Để hoạt động cho vay phát huy được vai trò của nó, mỗi chủ thể trong quan hệ cho vay phải được đảm bảo lợi ích của mình. Cụ thể là,

Đối với DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Việc vay vốn ngân hàng giúp cho khách hàng DNN&V trong lĩnh vực CN&XD tập trung được vốn kinh doanh đồng bộ, đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất, đổi mới kiểu dáng mẫu mã sản phẩm, đổi mới tổ chức quản lý, nâng cao trình độ người lao động, nhờ đó mà giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận và nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp.

Đối với ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, cho vay là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng, đối với các hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng chiếm tới hơn 50% tổng tài sản có và thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm khoảng từ ½ đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Mặt khác, rủi ro trong hoạt động cho vay có


xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục cho vay, khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động cho vay của ngân hàng, viêc ngân hàng không thu hồi đươc vốn, có thể là do ngân hàng buông lỏng quản lý, cấp tín dụng không minh bạch, áp dụng một chính sách tín dụng kém hợp lý, hay do nền kinh tế đi xuống không lường trước hay do nguyên nhân chủ quan từ phía khách hàng ….

Mặc dù chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn, nhưng hoạt động cho vay lại là hoạt động chính của ngân hàng, vì thế ngân hàng cho vay thu đươc lãi suất phù hợp với các khoản vay đó và đó cũng là thu nhập chính của ngân hàng cho vay. Điều đó đảm bảo cho ngân hàng bảo tồn được vốn và có lãi để bù đắp những chi phí và phát triển hoạt động của mình.

Đối với nhà nước. Cho vay của NHTMCP đối với DNN&V góp phần tăng cường đầu tư cho nền kinh tế. Với vai trò là trung gian tài chính ngân hàng đóng vai trò là cầu nối vốn cho nền kinh tế, giữa người thừa vốn và người cần vốn để đầu tư. Vì thế mà ngân hàng giải quyết được một trong những đặc điểm của tiền là: “Tiền có giá trị theo thời gian”, các nguồn vốn nhàn rỗi đươc tập hợp và đầu tư cho các phương án, dự án kinh doanh khác nhau đang cần vốn để thưc hiện dự án. Đáp ứng được nhu cầu vốn của dự án nghĩa là phương án, dự án đã được giải quyết về vấn đề vốn. Đây là yếu tố khó khăn, quan trọng để biến ý tưởng kinh doanh thành thực tế. Và chính nó cũng sẽ giải quyết được các vấn đề kinh tế xã hội như tăng trưởng, phát triển kinh tế. Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động…

Vì thế, hoạt động cho vay của NHTM càng mạnh, quy mô vay vốn càng tăng, đối tượng vay vốn càng rộng sẽ góp phần mở rộng sản xuất, thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật trên diện rộng. Bên cạnh đó, việc vay vốn không những giải quyết được nhu cầu vốn kinh doanh mà còn làm thay đổi cách nghĩ, cách làm… làm thế nào để sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế và mở rộng sản xuất, thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật sẽ làm tiền đề cho sự phát triển có hiệu quả đó. Tất cả những việc này được triển khai trên diện rộng, một mặt, sẽ giải quyết được việc làm, tăng thu nhập của người lao động nói chung, mặt khác nâng cao được trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, góp phần thức đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Thứ hai, đối tượng vay là DNN&V quy mô các khoản vay nhỏ, năng lực trình độ quản lý doanh nghiệp còn hạn chế, để thực hiện vai trò của mình, NHTMCP phải gắn liền giữa cho vay với hướng dẫn sử dụng và kiểm soát vốn vay.

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 06/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí