Nguyên Nhân Dẫn Đến Hạn Chế Trong Quy Trình, Tổ Chức Thẩm Định Và Cơ Chế Quản Lý, Chính Sách Cho Vay:


khách hàng vay vốn được tra cứu thông tin trên CIC chiếm 97%/tổng số khách hàng vay vốn.

Về CIC, so với trước đây, tuy CIC đã cung cấp được nhiều thông tin hơn, gồm tình hình dư nợ vay của DN tại các NHTM, lịch sử vay vốn, thông tin tổng hợp về DN, xếp hạng tín dụng DN, thông tin về TSBĐ, báo cáo tài chính DN nhưng vẫn còn hạn chế vì các số liệu chưa cập nhật kịp thời và đôi khi thiếu chính xác, đặc biệt là thiếu các thông tin phi tài chính.

Sở dĩ còn tồn tại hạn chế trên vì CIC hoạt động dựa vào số liệu mà các NHTM cung cấp, nhưng chưa có những quy định, ràng buộc chặt chẽ, chế tài đủ mạnh để buộc các NHTM phải tuân thủ nghiêm túc việc cung cấp số liệu cho CIC. Điều này dẫn đến các NHTM cũng chưa thật sự hợp tác, phối hợp và tuân thủ việc cung cấp thông tin một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác cho CIC. Thực tế xảy ra nhiều trường hợp khách hàng đã bị nợ quá hạn nhiều tháng, hay đã trả dứt nợ ngân hàng nhưng các NHTM không báo cáo cho CIC, nên CIC vẫn không cập nhật được tình trạng nợ khách hàng. Bên cạnh đó, thông tin báo cáo từ các ngân hàng có độ trễ nhất định, do quy định của NHNN về thời gian báo cáo. Do đó, nguồn thông tin mà CIC gửi đến cho các NHTM khác khi cần cũng bị hạn chế do chưa cập nhật được các biến động mới nhất về tình hình của DN.

Đối với các nguồn thông tin từ các website, thông tin trực tiếp từ các cơ quan ban ngành nhà nước và các DN, khả năng NHTM có thể khai thác phục vụ cho công tác thẩm định cũng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là các số liệu thống kê, dự báo. Mặc dù đã được cải thiện hơn so với trước đây nhưng ngành thống kê, tổng hợp ở nước ta vẫn còn chậm phát triển, các thông tin tổng hợp từ hoạt động thống kê vừa thiếu số lượng lẫn chất lượng. Điển hình như số liệu thống kê tình hình kinh tế xã hội của Cục thống kê tỉnh đến tháng 6 năm sau mới có số liệu chính thức của năm trước đó. Vì vậy, khi cần các số liệu như tỷ trọng nợ trung bình ngành, tỷ suất sinh lời trung bình, mức tồn kho trung bình, mức phải thu trung bình, tỷ trọng giá bán hàng vốn trung bình, quy mô định hướng phát triển ngành đối với mỗi lĩnh vực kinh doanh..,


những thông tin có ý nghĩa lớn trong việc thẩm định phương án, dự án vay vốn, ngân hàng thường rất khó tìm tại các website chính thức của cơ quan nhà nước như ở Cục Thống kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ.

Khả năng khai thác thông tin của NHTM còn yếu.


Việc thiếu sự hỗ trợ thông tin từ các cơ quan ban ngành, DN dẫn đến mỗi NH phải tự tìm tòi, khắc phục các hạn chế trên bằng cách tạo dựng cơ chế, quy định riêng nhằm khai thác và cung cấp thông tin, phục vụ cho việc thẩm định cho vay, nên mức độ hiệu quả và rủi ro là khác nhau. Do mỗi ngân hàng có mức độ nhận thức và điều kiện khác nhau trong việc thu thập thông tin, nên việc hạn chế thông tin trong thẩm định tín dụng còn xuất phát từ bản thân các NHTM. Một số NHTM chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của thông tin, nên việc nhận thông tin còn thụ động, chưa có biện pháp chủ động tìm kiếm, thu thập, xử lý và khai thác thông tin một cách hiệu quả nhất, phục vụ cho quá trình thẩm định tín dụng. Qua công tác thanh tra, kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước tỉnh Phú Thọ thì hiện nay 80% thông tin khách hàng cung cấp được các NHTM sử dụng để làm thông tin thẩm định.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Do thiếu thông tin để thẩm định nên nhiều NHTM ngại cho vay các DN có làm ăn với nước ngoài như các DN xuất nhập khẩu vì không thể thẩm định khả năng thực hiện hợp đồng của phía đối tác, sẽ rất dễ phát sinh rủi ro cho DN Việt Nam và NHTM nếu phía đối tác nước ngoài vi phạm hợp đồng.

Ngay cả khi biết được nguồn thông tin, để có thể tiếp cận thu thập được cũng đòi hỏi tốn kém chi phí cao. Dù nguồn thông tin đó là do các cơ quan trong nước hay nước ngoài cung cấp, thì với chi phí phải bỏ ra để có được, không phải NHTM nào cũng có thể mạnh dạn chi trả, đương cử như các chi phí để lấy thông tin tín dụng từ CIC. Với một thông tin cần lấy từ CIC, các NHTM phải chi trả 60.000 đồng đến 200.000 đồng/thông tin, với thông tin lấy từ các tổ chức cung cấp của nước ngoài có giá từ 2.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng/thông tin, trong khi có rất nhiều khách hàng cần phải lấy thông tin và mỗi khách hàng, ngân hàng cần tìm hiểu nhiều thông tin có liên quan như tài sản thế chấp, hồ sơ pháp nhân, xếp hạng DN thì

Nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho vay các Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động tại các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ - 9


khoản tiền chi ra là không nhỏ.


Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc thu thập mọi thông tin về khách hàng thông qua các biện pháp thu thập trực tiếp hay gián tiếp song cơ sở thông tin được dùng để phân tích thẩm định chủ yếu vẫn dựa trên các tài liệu mà khách hàng gửi đến. Trong nhiều trường hợp các nguồn thông tin này không thực sự khách quan vì để được ngân hàng chấp nhận cho vay, DN đã cố tình làm sai lệch các số liệu nhằm làm khả quan tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như làm tăng tính khả thi của dự án. Hiện nay hầu hết các phương án, dự án vay vốn gửi đến ngân hàng thẩm định đều là do DN tự lập, nguồn số liệu trong các báo cáo thường thiếu gây nhiều khó khăn cho cán bộ thẩm định. Các báo cáo tài chính được sử dụng để phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn cũng không thực sự đủ độ tin cậy bởi có nhiều DN chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc. Thêm vào đó các báo cáo tài chính, kết quả kinh doanh thường kỳ của DN nộp cho ngân hàng có nhiều loại khác nhau dẫn đến khó hệ thống chuẩn hoá thông tin.

Sự phối hợp về mặt thông tin giữa các CBTD cũng chưa chặt chẽ, thường xuyên.

Khối lượng công việc của phòng khá lớn nên các cá nhân làm việc một cách độc lập, dự án phân công cho ai thì người đó tự tìm kiếm thông tin, tự thẩm định dựa vào năng lực của bản thân, ít có sự hợp tác, hỗ trợ qua lại lẫn nhau về mặt thông tin trong quá trình thẩm định. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian cũng như chất lượng thẩm định. Điển hình như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh phú thọ một cán bộ tín dụng phụ trách trung bình 102 khách hàng cá nhân (theo số liệu thống kê của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước tỉnh Phú Thọ năm 2011).

Khả năng áp dụng khoa học công nghệ và kỹ thuật còn hạn chế:


Các ứng dụng công nghệ trong hoạt động nghiệp vụ ngân hàng trong thời gian qua đã có nhiều bước tiến như có hệ thống thanh toán quốc gia, các ngân hàng đã có cổng thông tin điện tử, website, áp dụng hệ thống Core banking và các dịch


vụ hiện đại như internet banking, mobile banking, ví điện tử…Tuy nhiên, ứng dụng khoa học công nghệ từ phía ngân hàng cũng còn rất nhiều khó khăn, cụ thể là không đồng đều, dẫn đến gây ra cản trở trong việc kết nối giữa các ngân hàng với nhau, tốn nhiều thời gian cũng như kinh phí. Và một vấn đề muôn thuở nữa chính là nguồn nhân lực để triển khai vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, theo kết quả thống kê năm 2011 của Phòng Hành chính Nhân sự Ngân hàng Nhà nước tỉnh Phú Thọ thì cán bộ của các NHTM có trình độ kỹ sư công nghệ chỉ chiếm 2%/tổng số cán bộ làm việc. Bên cạnh đó, các chính sách, tiêu chuẩn và hướng dẫn áp dụng công nghệ thiếu, chưa đồng bộ giữa nhà nước và ngành; bên cạnh đó do chi phí đầu tư cao cho nên các NHTM còn e dè chưa đầu tư.

2.2.4.3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong quy trình, tổ chức thẩm định và cơ chế quản lý, chính sách cho vay:

Chưa thực hiện chuyên môn hóa triệt để khâu tín dụng.


Tác giả thực hiện nghiên cứu bộ máy tổ chức thẩm định của 13 NHTM trên địa bàn, cho thấy hiện nay, chỉ mới một số NHTM lớn như Sacombank, Vietcombank, BIDV đã thực hiện cơ cấu lại bộ máy thẩm định tín dụng theo hướng tách bộ phận tín dụng thành các bộ phận chuyên môn để phân định rõ chức năng đề xuất và thẩm định tín dụng, nhằm đảm bảo tính khách quan và nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng. Bên cạnh đó, vẫn còn một số các NHTM như Vietinbank, Agribank và các NHTM cổ phần nhỏ chưa áp dụng cơ chế trên, trong khi các NH này đang có tỷ lệ dư nợ cho vay DNNVV vào loại cao trong hệ thống NHTM, dẫn đến yếu tố tiêu cực, phát sinh rủi ro chủ quan là lớn. Tại các ngân hàng này, một CBTD có thể thực hiện nhiều hoặc tất cả các khâu trong quá trình cho vay gồm: tiếp thị khách hàng, thẩm định, đề xuất cho vay, tiến hành công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm, giải ngân, theo dõi và xử lý nợ vay như tại Agribank (CBTD thực hiện tất cả), Vietinbank (CBTD thực hiện tất cả, trừ thẩm định và xử lý nợ thì kết hợp với Phòng Quản lý rủi ro).

Bên cạnh ưu thế là đơn giản, nhanh chóng và dễ quy trách nhiệm, cơ chế


không tách bộ phận tín dụng cũng bộc lộ các nhược điểm lớn, ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định cho vay. Đó là việc dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng của bộ phận tín dụng khi được độc quyền tiếp xúc và thẩm định cho vay khách hàng.

Ngoài ra, việc duy trì cơ chế trên cũng tạo ra một khối lượng công việc quá lớn và áp lực cho CBTD khiến cho công tác thẩm định cho vay diễn ra sơ sài, hời hợt, chủ quan vì không có nhiều thời gian, đặc biệt khi CBTD đang phải quản lý, theo dõi một số lượng lớn khách hàng gồm cả khách hàng nợ xấu.

Công tác thẩm định rủi ro tín dụng độc lập chưa được coi trọng và quan tâm đúng mức.

Việc ra đời bộ phận thẩm định rủi ro tín dụng độc lập tại các ngân hàng trong những năm gần đây như Vietinbank, Vietcombank, Agribank... là nhằm tăng cường hơn nữa chất lượng trong thẩm định cho vay và hạn chế rủi ro. Bộ phận này sẽ tham gia kết hợp với bộ phận tín dụng trong việc thẩm định hồ sơ vay với tư cách là bộ phận thẩm định độc lập, có chức năng như là tái thẩm định lại các nội dung mà phòng tín dụng đã tiến hành. Tùy theo đặc điểm mỗi ngân hàng, mỗi chi nhánh mà mức độ tham gia của bộ phận này trong công tác thẩm định hồ sơ vay là nhiều hay ít, đặc biệt đối với các hồ sơ vay lớn, hầu như đều có sự tham gia của bộ phần này. Đây có thể xem là chốt chặn cuối cùng nhằm hạn chế rủi ro trước khi giải quyết cho vay.

Tuy với ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng thực tế áp dụng lại cho thấy, bộ phận này chưa nhận được sự quan tâm đúng mức cũng như chưa phát huy được hết vai trò của mình tại các chi nhánh ngân hàng áp dụng mô hình trên, thậm chí là bị hủy bỏ sau một thời gian ngắn áp dụng như tại Agribank. Một số hạn chế khi triển khai bộ phận này:

- Cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định rủi ro độc lập thường có mối quan hệ thân thiết, nể nang nhau nên khi thẩm định hồ sơ, cán bộ thẩm định rủi ro tín dụng thường không có chính kiến riêng mà tùy thuộc quyết định cho vay của CBTD.

- Trường hợp cán bộ thẩm định rủi ro độc lập thực hiện đúng nguyên tắc


theo quy định lại bị mang thành kiến là tác nhân dẫn đến việc không phát triển dư nợ cho chi nhánh, hạn chế khách hàng nên cũng thường ngại va chạm với bộ phận tín dụng, từ đó, tạo tâm lý e dè, buông xuôi khi thẩm định rủi ro độc lập.

- Lực lượng thẩm định rủi ro độc lập còn thiếu và yếu, chưa đủ khả năng để thực hiện tốt vai trò của mình. Thực tế cho thấy, tại một số Chi nhánh ngân hàng, lực lượng này là quá mỏng so với yêu cầu của công việc, dẫn đến việc thẩm định rủi ro chỉ mang tính hình thức, cho đủ ban bệ. Cơ chế lựa chọn cán bộ cho bộ phận này cũng chưa được đề cao, các cán bộ thường là mới, kinh nghiệm không nhiều, khả năng am hiểu về pháp luật, thị trường còn hạn chế, do vậy dẫn đến khả năng nhận định rủi ro là chưa cao, các tờ trình thẩm định rủi ro còn sơ sài, chung chung, chưa đi sâu phân tích và đề ra các biện pháp hay kiến nghị để khắc phục, hạn chế rủi ro. Ngoài ra, bộ phận thẩm định rủi ro tín dụng độc lập còn chịu nhiều sự tác động của các cấp quản lý trong quá trình tác nghiệp nên cũng chưa phát huy được hết vai trò là một bộ phận thẩm định độc lập, các kết luận thẩm định nhiều lúc còn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các cấp quản lý.

Theo kết quả điều tra năm 2011 của Phòng Hành chính Nhân sự Ngân hàng Nhà nước tỉnh Phú Thọ, hiện nay số cán bộ phòng thẩm định rủi ro độc lập của các NHTM chỉ có từ 3 đến 5 cán bộ, chiếm 4% trên tổng số cán bộ chi nhánh, trong đó cán bộ trẻ mới vào làm chiếm 65% trên tổng số cán bộ trong phòng.

Việc triển khai văn bản, quy trình, quy định cho vay còn hạn chế, chưa kịp thời.

Đây là hiện tượng xảy ra tại nhiều NHTM và là một trong những tác nhân ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định cho vay. Vì thiếu các quy định cụ thể, ràng buộc trong việc triển khai các văn bản, quy định cho vay nên tại mỗi Chi nhánh ngân hàng, khả năng tiếp nhận, tiếp thu và thực hiện của CBTD phụ thuộc rất lớn vào các cấp quản lý. Nếu các lãnh đạo có khả năng quản lý không tốt, không có phương thức triển khai văn bản đến CBTD một cách khoa học, hiệu quả sẽ là tác nhân ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thẩm định cho vay, đặc biệt là tại các ngân


hàng chưa thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn ISO như Agribank, Vietinbank (mới

đang giai đoạn triển khai ISO) và các NHTM cổ phần nhỏ.


Xây dựng chính sách, định hướng cho vay còn hạn chế.


Một số NHTM xây dựng chính sách cho vay chưa đạt tầm chiến lược, chưa triệt để theo nguyên tắc thị trường (lợi nhuận và mức rủi ro có thể chấp nhận được) mà bị cuốn theo các hội chứng kinh tế, phong trào khẩu hiệu phát triển kinh tế hay chủ nghĩa thành tích, thiếu định hướng phát triển tín dụng phù hợp, kịp thời với tình hình mới. Điều này là do các NHTM chưa hình thành bộ phận lập chính sách chuyên nghiệp, được đào tạo tốt, có năng lực, có khả năng tiếp cận và khai thác thông tin, nhạy cảm với những xu hướng thay đổi của nền kinh tế.

Cơ chế chính sách của Nhà nước còn bất cập, chưa đồng bộ.


Hiện nay một số cơ chế chính sách của Nhà nước cũng ảnh hưởng tới công tác thẩm định, gây ra không ít khó khăn. Với chính sách lãi suất ban hành: Tiền gửi không kỳ hạn thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn; thời hạn gửi tiền dài hơn, tỷ lệ lãi suất cao hơn; Ngược lại khi cho vay, lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay dài hạn, thời hạn vay càng dài, lãi suất cho vay càng thấp. Cơ chế này tạo cho các doanh nghiệp có tư tưởng ỷ lại, không tự khai thác tối đa nguồn vốn tự có của mình vào đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và ngay từ khi lập đơn xin vay, doanh nghiệp đã tìm cách tính toán lợi dụng lấy vốn dài hạn dùng vào việc khai thác hoặc kinh doanh ngắn hạn. Điều này dẫn đến việc tạo ra kẽ hở trong quản lý, trong việc duyệt cho vay vốn dẫn đến tiêu cực, tham nhũng.

2.2.4.4. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong thẩm định năng lực điều hành của DN:

Khả năng khai thác thông tin về năng lực điều hành DN còn yếu.


Việc thẩm định yếu tố trên chủ yếu qua khai thác thông tin từ CIC và thực tế tiếp xúc khách hàng. Tuy nhiên, nguồn tin từ CIC thì thiếu các thông tin phi tài chính như những thành tựu về quản lý, năng lực quản trị điều hành của đội ngũ lãnh


đạo DN trong khi ngân hàng đi thẩm định, tiếp xúc thực tế thì thời gian có hạn, không đủ để có thể nhận định, đánh giá được hết khả năng của khách hàng, các mối quan hệ đối tác với ngân hàng không phải lúc nào cũng có thể đáp ứng được các thông tin cần thiết.

Khả năng thẩm định của CBTD chưa cao.


Khả năng khai thác, nhận định khách hàng qua tiếp xúc của CBTD cũng còn hạn chế dẫn đến việc xem xét năng lực điều hành quản lý của khách hàng còn mang tính chung chung, theo cảm nhận chủ quan của người thẩm định.

2.2.4.5. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong phân tích tài chính DN:


Do các một số NHTM chưa xây dựng được phương pháp thẩm định khoa học và chi tiết, rễ vận dụng. Bên cạnh đó công tác đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ thực thi còn chưa được chú trọng. Theo kết quả tổng hợp năm 2011 của Phòng Hành chính Nhân sự Ngân hàng Nhà nước tỉnh Phú Thọ thì số cán được đi đào tạo, bồi dưỡng năm 2011 là 129 cán bộ chiếm 10,7%/tổng số cán bộ của các NHTM. Bản thân cán bộ cũng chưa sáng tạo, vận dụng linh hoạt vào trong công tác của mình, một số cán bộ lười, ỷ nại không thực hiện theo những phương pháp, quy trình thẩm định mà các NHTM đã xây dựng. Bên cạnh đó quy trình và phương pháp thẩm định đã được xây dựng là áp dụng chung cho mọi loại dự án, chưa có văn bản hướng dẫn riêng cho từng loại dự án thuộc các lĩnh vực khác nhau.

Hạn chế trong cung cấp báo cáo tài chính của DN xuất phát từ 2 yếu tố chính là: đội ngũ kế toán của DN thiếu năng lực nên hạch toán sai và tư tưởng chưa xem trọng việc thực hiện BCTC của lãnh đạo DN.

Đội ngũ kế toán của DN chưa chuyên nghiệp.


Thực tế là tại nhiều DNNVV, hệ thống thông tin báo cáo tài chính, sổ sách kế toán chưa được thực hiện đầy đủ, thiếu chính xác, minh bạch, công khai, cụ thể như không có bảng lưu chuyển tiền tệ, BCTC ít được qua kiểm toán, cơ sở lập BCTC không rõ ràng thậm chí nhiều DN xây dựng BCTC cho có để đủ thủ tục, điều

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 09/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí