Bước 7: Thanh lý hợp đồng tín dụng. Kết thúc thời hạn hợp đồng, ngân hàng và khách hàng cùng xem xét kết quả thực hiện từng điều khoản hợp đồng đã được thỏa thuận giữa hai bên.
1.2.3 Đặc điểm và rủi ro của tín dụng ngân hàng đối với DNNVV
Xuất phát từ đặc điểm của các DNNVV như qui mô vốn và tài sản nhỏ bé; sổ sách và báo cáo kế toán không rõ ràng, minh bạch; sử dụng công nghệ lạc hậu trong sản xuất kinh doanh; trình độ tay nghề công nhân viên cũng như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp còn ở mức thấp …. Do đó, quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với các ngân hàng thương mại có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, về qui mô tín dụng: rất thấp nếu tính bình quân trên một doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ hai, về thời hạn tín dụng: chủ yếu là vay ngắn hạn.
Thứ ba, về đảm bảo tín dụng: hầu hết các DNNVV phải có tài sản đảm bảo khi vay vốn các ngân hàng thương mại.
Thứ tư, về mục đích sử dụng của vốn vay: chủ yếu sử dụng bổ sung vốn lưu động.
Thứ năm, về lãi suất: ít được ưu đãi lãi suất, lãi suất theo sự ấn định của các ngân hàng thương mại do DNNVV chưa có sự tín nhiệm cao từ các ngân hàng thương mại.
Thứ sáu, về khả năng hoàn trả nợ vay: DNNVV dễ gặp khó khăn trong việc trả nợ vay khi có sự biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ như: lạm phát, khủng hoảng kinh tế, tài chính ….
Có thể bạn quan tâm!
- Tiểu Chuẩn Của Một Số Quốc Gia Và Tổ Chức Trên Thế Giới
- Tổng Quan Về Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa
- Một Số Hình Thức Tín Dụng Ngân Hàng Chủ Yếu Trong Nền Kinh Tế
- Năng Lực Và Chính Sách Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
- Bài Học Kinh Nghiệm Từ Một Số Quốc Gia Và Vùng Lãnh Thổ Về Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Dnnvv
- Sơ Lược Về Tình Hình Kinh Tế, Xã Hội Của Tp.hcm
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
Với đặc điểm của các DNNVV và tín dụng ngân hàng đối với các DNNVV, nên quan hệ tín dụng giữa DNNVV với các ngân hàng thương mại tiềm ẩn các rủi ro sau đây:
Tình trạng thông tin bấc cân xứng làm cho ngân hàng không nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro của DNNVV một cách toàn diện và đầy đủ, do đó các ngân hàng dễ bị mất vốn khi quyết định cho vay.
Các DNNVV, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ thường kinh doanh dựa vào mối quan hệ quen biết và manh mún nên ngân hàng khó phát hiện được các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi đã giải ngân.
Khả năng tài chính của các DNNVV bị hạn chế, cụ thể là vốn tự có thấp do đó khi gặp khó khăn thì dẽ bị mất tính thanh khoản, dẫn đến việc thu hồi nợ vay của ngân hàng sẽ gặp khó khăn.
Việc sử dụng vốn sai mục đích của các DNNVV cũng làm nảy sinh các rủi ro mất vốn của ngân hàng. Các DNNVV thường sử dụng vốn vay cho mục đích cá nhân và gia đình.
Các DNNVV kinh doanh thường phụ thuộc vào một số khách hàng lớn, khi những khánh hàng này gặp khó khăn thì DNNVV cũng sẽ khó khăn theo, từ đó gâp rủi ro cho ngân hàng.
Khả năng quản lý tài chính yếu kém của các DNNVV cũng làm nảy sinh các rủi ro cho ngân hàng trong việc thu nợ vay đúng hạn.
1.2.4 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các DNNVV
Trong cơ chế cạnh tranh hiện nay, khi mà tất cả các loại hình doanh nghiệp đang phát huy hiệu quả kinh doanh ở mức cao nhất thì các DNNVV lại càng phải nỗ lực hơn để đáp ứng những yêu cầu mới, sản phẩm cần tốt hơn, đa dạng hơn, thiết bị cần hiện đại hơn, máy móc, công nghệ cần tiên tiến hơn và tất yếu vốn phải cần nhiều hơn. Như vậy, suy cho cùng thì vốn vẫn là điều kiện tiên quyết, quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các DNNVV lại không đủ vốn để đáp ứng những yêu cầu mới đó, nên tín dụng ngân hàng là kênh huy động vốn ngày càng có vai trò quan trọng hơn, cần thiết hơn đối với các DNNVV, vai trò đó được thể hiện trên một số mặt sau:
1.2.4.1 Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ các DNNVV phát triển, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, bất cứ ai cũng muốn đồng vốn của mình sinh lời. Những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó để kiếm lãi, còn những nhà doanh nghiệp cũng vì mục đích sinh lợi của vốn mà cần vay thêm tiền để mở rộng sản xuất. Với tư cách là trung gian dẫn vốn, ngân hàng đã giải quyết mâu thuẫn đó. Với hoạt động đi vay để cho vay, ngân hàng đã tạo cơ hội cho các chủ DNNVV muốn mở rộng sản xuất kinh doanh hay thực hiện một dự án kinh doanh có thể vay vốn để thực hiện.
Tín dụng ngân hàng tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV, tín dụng ngân hàng luôn chuyển hướng đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn chế hoặc không đầu tư vào những DNNVV có tỷ suất lợi nhuận thấp. Qua đó tín dụng ngân hàng làm thay đổi quan hệ về cung - cầu hàng hoá và thay đổi cơ cấu ngành nghề kinh tế.
1.2.4.2 Tín dụng ngân hàng góp phần tăng nguồn vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNVV.
Một trong những quy luật khách quan của cơ chế thị trường là cạnh tranh và quy luật này ngày càng quan trọng, quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Tuy nhiên do những đặc điểm, tính chất của mình, DNNVV gặp không ít những khó khăn trong việc phát triển tạo thị phần, tạo niềm tin, tạo hình ảnh trong khi vị thế của các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước đã ổn định và có chỗ đứng trên thị trường, vì vậy xu hướng hiện nay của các DNNVV là tìm cách liên doanh, liên kết nhằm bổ sung và hoàn thiện những hạn chế của mình, đặc biệt là hạn chế về vốn.
Mặc dù vậy, để đầu tư phát triển lớn, liên doanh, liên kết thôi chưa đủ vì vốn tự có thường hạn hẹp, khả năng tích tụ thấp cần mất nhiều năm mới có
thể có được đủ vốn nhưng khi đó cơ hội làm ăn có thể không còn nữa. Do đó các DNNVV thường xuyên tìm cách huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế, trong đó chủ yếu là nguồn tín dụng ngân hàng. Khi vốn được giải ngân, sức mạnh tài chính của DNNVV tăng lên thì các DNNVV cũng có cơ hội thực hiện được mục đích của mình, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường, tạo thế cạnh tranh.
1.2.4.3 Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận các nguồn vốn từ nước ngoài.
Bên cạnh việc kích thích các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp vay bằng tiền, bảo lãnh cho các DNNVV mua thiết bị trả chậm, sử dụng hạn mức L/C…. Như vậy quan hệ quốc tế của các DNNVV đã được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV, đặc biệt là các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Thông qua nguồn vốn vay này, DNNVV xác lập một cơ cấu vốn tối ưu đảm bảo kết hợp hiệu quả giữa nguồn đi vay với nguồn vốn tự có để sản xuất những sản phẩm có giá thành thấp hơn, nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng hàng hoá và được thị trường chấp nhận. Có như vậy thì DNNVV mới đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của mình.
1.2.4.4 Tín dụng ngân hàng góp phần tích cực hình thành đồng bộ hệ thống thị trường các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” cho các DNNVV.
Các DNNVV có vốn lưu động thấp so với nhu cầu vốn cần thiết của doanh nghiệp. Nguồn vốn để mua vật tư hàng hoá dự trữ cho sản xuất kinh doanh (kể cả trong nước và ngoài nước) chủ yếu được bù đắp bằng vốn tín dụng ngân hàng. Mặt khác tín dụng ngân hàng cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua việc mở rộng tín dụng tiêu dùng; cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động
trong lĩnh vực lưu thông mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ tập trung cho vay những đối tượng hàng hoá có chất lượng cao, có sức cạnh tranh tốt, qua đó thúc đẩy việc xác lập cơ cấu kinh tế mới theo hướng hiện đại.
1.2.4.5 Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNVV.
Tín dụng ngân hàng với cơ chế hoạt động cơ bản là “đi vay để cho vay”; “vay có hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn gốc và có lãi”; nếu quá hạn phải chịu lãi suất cao, đã thúc đẩy các DNNVV nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn.
Để có tiền cho các DNNVV vay, ngân hàng phải tiến hành huy động vốn và có quy định thời hạn trả vốn rõ ràng, như vậy ngân hàng cũng phải cân đối giữa nguồn huy động và nguồn cho vay sao cho phù hợp, đảm bảo tính thanh khoản cho ngân hàng. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng đã cân nhắc nguồn có khả năng giải ngân, và thời hạn cần thiết để thu hồi vốn. Cho nên đến thời hạn trả nợ, dù DNNVV làm ăn có lãi hay không cũng phải thực hiện nhiệm vụ trả nợ của mình. Do đó bắt buộc hoạt động kinh doanh của DNNVV phải sinh lời.
Thêm vào đó, khi cho vay ngân hàng thường xuyên kiểm tra tình hình kinh doanh cũng như tình hình tài chính của DNNVV và họ chỉ cho vay những DNNVV có kết quả kinh doanh tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, đảm bảo có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Yếu tố này thúc đẩy các DNNVV cần quan tâm hơn nữa đến hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng vòng quay vốn tạo điều kiện nâng cao khả năng tối đa hoá lợi nhuận của các DNNVV.
Mặt khác, thông qua cho vay, vốn tín dụng được cung cấp kịp thời tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh và nâng cao trách nhiệm sử dụng vốn của các DNNVV. Việc quản lý vốn thông qua quá trình hạch toán kinh tế góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh tế trong các DNNVV thêm vững chắc.
Khi quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và DNNVV được thiết lập thì cũng là lúc họ cùng bước trên một con đường. Vốn đã đưa vào kinh doanh thì cả ngân hàng và DNNVV đều muốn nó quay lại với một lượng giá trị lớn hơn khi bỏ ra nên họ cùng nhau hợp tác để đồng vốn có lãi. Do đó, trước, trong và sau khi giải ngân, ngân hàng luôn quan tâm đến hoạt động kinh doanh của DNNVV để có thể góp ý, tham gia trên những lĩnh vực mà ngân hàng biết, cũng bởi ngân hàng có quan hệ với rất nhiều các chủ thể kinh tế khác, vậy nên thông tin mà họ nắm bắt được cũng rất nhanh, chính xác giúp DNNVV chủ động trước thời cơ cũng như thách thức, từ đó tìm ra các biện pháp tốt nhất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.2.4.6 Góp phần nâng cao trình độ công nghệ khoa học, chất lượng và mẫu mã sản phẩm
Với đặc điểm nguồn vốn thấp, các DNNVV khó đầu tư được công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại để cải thiện chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ ngân hàng có thể coi là nguồn quan trọng để DNNVV thực hiện được nhu cầu này.
1.2.4.7 Góp phần nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp và trình độ tay nghề người lao động
Việc nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp và trình độ tay nghề người lao động sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của doanh nghiệp và tăng năng suất lao động. Mặc dù hiểu được điều này nhưng các DNNVV đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ không muốn chi tiền để đào tạo, tất cả nguồn vốn doanh nghiệp đều tập trung cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy, nếu doanh nghiệp có thể tiếp cận được nguồn tín dụng từ ngân hàng sẽ làm tăng nguồn vốn hoạt động cho doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong công tác đào tạo của mình.
Qua một vài khía cạnh nêu trên, ta thấy được vai trò to lớn của tín dụng ngân hàng đối với các DNNVV, và sẽ là quan trọng hơn đối với các DNNVV
hoạt động ở vùng nông thôn, những địa phương còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNVV là thực sự cần thiết để hoàn thiện một nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay.
1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.5.1 Môi trường chính trị, pháp lý, kinh tế xã hội
Môi trường chính trị
Việt Nam có môi trường chính trị rất ổn định, đây là điều kiện hết sức thuận lợi, tạo tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, tạo sự an tâm cho người dân bỏ vốn sản xuất kinh doanh. Đó cũng là môi trường thuận lợi cho hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nói riêng.
Môi trường pháp lý
Hiện tại nước ta đã có những cải cách đáng kể để tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng và công bằng cho các loại hình doanh nghiệp cùng tham gia kinh doanh, từng bước tiến tới hệ thống luật pháp đồng bộ, điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp theo một cơ chế chính sách thống nhất trên quan điểm Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân, từng doanh nghiệp; huy động tối đa các nguồn vốn trong xã hội, giải phóng triệt để và phát triển mạnh mẽ các nguồn lực sản xuất.
Triển khai nhanh chóng và toàn diện những nội dung cơ bản của Luật doanh nghiệp; tiếp tục xóa bỏ số lượng các giấy phép kinh doanh không cần thiết. Rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy trong hệ thống luật pháp nhằm bảo đảm sự bình đẳng trong hưởng thụ các dịch vụ công, tiếp cận các nguồn lực và cơ hội đầu tư kinh doanh, trên cơ sở tạo điều kiện và tạo môi trường bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp được tiếp cận vốn
tín dụng, đất đai, công nghệ mới, thông tin, thị trường, đào tạo và các chế độ ưu đãi hiện hành của Nhà nước.
Xây dựng và hoàn chỉnh khung pháp lý đảm bảo sự ổn định và rõ ràng về môi trường đầu tư và tính công khai, minh bạch về chế độ, chính sách khuyến khích đầu tư.
Môi trường kinh tế - xã hội
Môi trường kinh tế, xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng của các NHTM đối với các doanh nghiệp nói chung và với DNNVV nói riêng.
Môi trường kinh tế, xã hội thuận lợi cho sự phát triển của tín dụng ngân hàng là có đông dân cư, thu nhập cao; là trung tâm tài chính, trung tâm thương mại, trung tâm du lịch, trung tâm giáo dục đào tạo, trung tâm khoa học kỹ thuật ....
1.2.5.2 Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa là nhân tố cực kỳ quan trọng để thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, bảo đảm cho sự phát triển ổn định nền kinh tế, phòng chống nguy cơ khủng hoảng kinh tế. Đối với nhiều quốc gia các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn là xương sống trong sự phát triển của nền kinh tế.
Hiện nay, các DNNVV thì rất thiếu vốn, cộng thêm vào đó là sức ép cạnh tranh từ hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, để các DNNVV phát huy tốt vai trò của mình thì việc Nhà nước ta cần có những chính sách hỗ trợ cho các DNNVV là điều hết sức cần thiết. Các chính sách đó phải chú trọng việc khai thác và huy động hợp lý các nguồn vốn luôn là một nhiệm vụ trung tâm, một ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển doanh nghiệp nói chung và DNNVV và vừa nói riêng.
1.2.5.3 Năng lực của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Năng lực tài chính
Các DNNVV ở Việt Nam thường gặp khó khăn về tài chính. Doanh nghiệp thuộc dạng siêu nhỏ thì càng gặp khó khăn về tài chính trầm trọng hơn