Đánh Giá Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Tại Vietcombank

có thái độ thiếu hợp tác, thoái thác trách nhiệm trả nợ, thì kiên quyết thực hiện các biện pháp pháp lý, khởi kiện ra tòa để tăng cường khả năng thu hồi nợ.

5 Đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank

Hiệu quả hoạt động quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank trong giai đoạn 2005 – 2008 được thể hiện qua một số chỉ tiêu dưới đây:

Bảng 2 - 9 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng DNNVV


Chỉ tiêu

2005

2006

2007

2008

Lợi nhuận (tỷ VND)

237.3

517.5

402.6

425.8

Tăng lợi nhuận (tỷ VND)

38.6

280.2

(114.9)

23.2

Tăng lợi nhuận (%)

19.43

118.08

(22.21)

5.76

Tỷ lệ nợ quá hạn (%)

1.88

1.19

1.25

2.78

Tỷ lệ nợ xấu (%)

3.46

2.31

3.39

4.62

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank thời kỳ khủng hoảng kinh tế - 10

Như vậy, nếu kết hợp các chỉ tiêu về lợi nhuận và chất lượng tín dụng để đánh giá hiệu quả công tác quản trị rủi ro tín dụng DNNVV thì trong năm 2006, hoạt động này đạt thành công nhất, thể hiện ở mức tăng trưởng lợi nhuận cao và tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn thấp. Trong hai năm 2007 và 2008, chất lượng quản trị rủi ro tín dụng có những biểu hiện đi xuống nghiêm trọng, lợi nhuận tín dụng tăng trưởng ở mức thấp, thậm chí còn giảm. Đó là do những hạn chế nhất định còn tồn tại trong những quy định và mô hình quản trị rủi ro của Vietcombank, cụ thể có một số hạn chế cơ bản như sau:

Về quy định phân cấp xác định giới hạn tín dụng/cấp tín dụng

Theo phân cấp xác định GHTD/cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cán bộ tín dụng thuộc phòng Quan hệ khách hàng tại các Chi nhánh có nhiệm vụ tiếp nhận, phân tích, đánh giá các đề nghị cấp tín dụng của khách hàng và đề xuất GHTD/cấp tín dụng lên Giám đốc/Phó Giám đốc Chi nhánh phê duyệt.

Giới hạn tín dụng là mức tín dụng tối đa mà ngân hàng đồng ý cấp cho khách hàng, thể hiện mức độ rủi ro tổng thể xét trên toàn bộ hoạt động kinh doanh của khách hàng. Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thực hiện rất nhiều giao dịch. Rủi ro của một giao dịch không nhất thiết dẫn đến rủi ro hệ thống, nhưng nếu xảy ra rủi ro hệ thống thì mọi giao dịch sẽ chịu rủi ro. Việc xác định giới hạn tín dụng rất quan trọng trong quản trị rủi ro tín dụng và cần được một bộ phận độc lập và chuyên môn hóa

thực hiện để đảm bảo tính khách quan và hướng đến các chuẩn mực quốc tế như nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu đã đề ra. Vì vậy sự phân cấp trong xác định giới hạn tín dụng chưa đảm bảo được yêu cầu này.

Về cơ sở xác định giới hạn tín dụng

Hiện nay việc xác định giới hạn tín dụng cho doanh nghiệp dựa trên tình hình kinh doanh, năng lực tài chính của doanh nghiệp, mức độ rủi ro và giới hạn tín dụng tham khảo. Khi xác định giới hạn tín dụng, trước hết phải xếp hạng tín dụng doanh nghiệp và áp dụng công thức để tính giới hạn tín dụng tham khảo.

Tín dụng tham khảo là một số tham chiếu rất cần thiết trong việc ra quyết định giới hạn tín dụng. Tuy nhiên, việc tính toán giới hạn tín dụng tham khảo đang trong quá trình thử nghiệm, chưa phải là một căn cứ chặt chẽ. Giới hạn tín dụng đưa ra cũng có thể lớn hơn giới hạn tín dụng tham khảo chỉ cần có các lý lẽ thuyết minh cho sự lớn hơn đó. Do vậy, việc tính toán giới hạn tín dụng tham khảo và định lượng các yếu tố tài chính, phi tài chính để xếp hạng tín dụng doanh nghiệp không còn nhiều ý nghĩa. Nhiều khi, giới hạn tín dụng được xác định vượt khá xa so với giới hạn tín dụng tham khảo và không có mối liên hệ nào cả. Do đó yếu tố định tính ảnh hưởng nhiều hơn đến giới hạn tín dụng so với yếu tố định lượng, điều này là không phù hợp với xu hướng phát triển trong quản trị rủi ro tín dụng hiện đại.


Về thời gian đánh giá lại giới hạn tín dụng

Trong các lần cho vay cụ thể đối với khách hàng, cán bộ tín dụng sẽ thực hiện đánh giá rủi ro của từng lần giao dịch và đề xuất hạn mức tín dụng của từng lần cho vay không vượt quá GHTD. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng không thường xuyên đánh giá lại GHTD, đặc biệt đối với những khách hàng quen đã giao dịch nhiều lần, tạo ra tâm lý chủ quan, dẫn đến không kịp thời phát hiện những đe dọa đến chất lượng tín dụng.

Quy định về chính sách khách hàng

Các chính sách về chi phí, lãi suất của Vietcombank áp dụng đối với khách hàng chưa rõ ràng và chưa có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro với lợi ích yêu cầu của ngân hàng tương ứng với mức độ rủi ro.

Vietcombank chưa ban hành một chính sách khách hàng cụ thể và cơ sở phân loại khách hàng để áp dụng vào chính sách đó. Các chính sách phí, lãi suất được đưa ra là

phí, lãi suất ưu đãi áp dụng đối với những khách hàng tốt nhất nhưng “chuẩn” về khách hàng tốt nhất vẫn chưa rõ ràng, thống nhất mà chỉ là tiêu chuẩn định tính, chưa được lượng hóa để việc áp dụng được hợp lý và khách quan.

Về định hướng khách hàng

Để có thể chủ động trong việc cấp tín dụng cho những thị trường mục tiêu phù hợp với đặc thù của ngân hàng và ít rủi ro, Vietcombank cần phải xây dựng cho mình các chiến lược dài hạn, kế hoạch tín dụng và định hướng thị trường, định hướng khách hàng mục tiêu. Tuy nhiên hiện nay Vietcombank vẫn chưa xây dựng được một chiến lược rõ ràng về phân khúc thị trường nhất định cho từng khu vực, từng chi nhánh. Chính vì vậy hoạt động đầu tư tín dụng của Vietcombank còn mang tính thụ động, đầu tư tín dụng theo phong trào nên khả năng phòng ngừa và hạn chế rủi ro còn thấp.

Về danh mục đầu tư

Hiện nay danh mục đầu tư của Vietcombank vẫn chủ yếu gồm các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty nhà nước; mặc dù đã có định hướng phát triển đối với loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho vay thể nhân nhưng do chỉ đạo chưa quyết liệt nên tỷ trọng đầu tư tín dụng trong khu vực này còn thấp, chưa góp phần đa dạng hóa rủi ro.

Về sự tuân thủ quy trình tín dụng

Sự tuân thủ quy trình tín dụng của Vietcombank có những thời điểm chưa nghiêm và thiếu thận trọng. Nhiều khoản tín dụng được phê duyệt một cách vội vàng, chạy theo yêu cầu của khách hàng và được chỉ định của cấp phê duyệt từ trên xuống mà thiếu đi sự phân tích, thẩm định tín dụng của cán bộ quản lý khoản vay. Việc cấp tín dụng còn mang tính cảm tính, không dựa vào quá trình thu thập thông tin, phân tích và xử lý thiếu thận trọng và chính xác. Quá trình giải ngân và giám sát sau khi cho vay rất lỏng lẻo, có nhiều khoản giải ngân bằng tiền mặt theo sự lý giải của khách hàng một cách bất hợp lý và đã thực sự trở thành nợ xấu, giám sát kiểm tra sau khi cho vay được thực hiện qua loa. Nhiều Chi nhánh thực hiện đầu tư tín dụng ngoài địa bàn hoạt động của Chi nhánh nên việc kiểm tra tình hình kinh doanh, năng lực tài chính, tính trung thực trong sử dụng vốn vay và kiểm soát nguồn tiền của khách hàng không đảm bảo tính chính xác và kịp thời. Tất cả những điều đó đã làm cho khả năng phòng ngừa, chống đỡ rủi ro tín dụng của Vietcombank còn hạn chế, chất lượng tín dụng giảm sút.

Về đào tạo con người

Trong thời gian gần đây, đặc biệt là trong năm 2007 và năm 2008 Vietcombank đã chú trọng đến việc phát triển mở rộng mạng lưới các chi nhánh và hệ thống các Phòng giao dịch, theo đó có 36 Chi nhánh được nâng cấp và 84 Phòng giao dịch được thành lập. Tuy nhiên, công tác đào tạo nguồn nhân lực chưa được chuẩn bị kịp thời, số lượng cán bộ chủ chốt để đáp ứng cho hoạt động kinh doanh thiếu khá nhiều.

Sau khi các Chi nhánh cấp 2 được nâng cấp thành Chi nhánh cấp 1, hoặc thành lập mới các Phòng giao dịch, một số cán bộ cũ đi nắm giữ các chức vụ chủ chốt tại các Chi nhánh và các Phòng giao dịch, một số khác chuyển sang làm lãnh đạo tại các ngân hàng cổ phần nên lực lượng cán bộ nắm giữ các vị trí chủ chốt, đặc biệt cán bộ làm công tác tín dụng càng thiếu trầm trọng. Thêm vào đó, hầu hết cán bộ làm công tác tín dụng tuổi đời còn trẻ, dưới 30 tuổi, phần lớn công tác trong lĩnh vực tín dụng từ 1 – 3 năm nên kinh nghiệm còn hạn chế. Khác với các nghiệp vụ khác tại Ngân hàng, cán bộ làm công tác tín dụng ngoài yêu cầu về trình độ chuyên môn còn đòi hỏi phải có kinh nghiệm thực tiễn và bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng. Tổng Giám đốc Vietcombank, ông Vũ Viết Ngoạn đã kết luận từ thực tiễn là muốn có một cán bộ tín dụng đủ năng lực, kinh nghiệm để đáp ứng yêu cầu công việc phải qua đào tạo, làm việc ít nhất là 3 năm. Điều này cho thấy với lực lượng cán bộ còn ít kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn cũng như công tác đào tạo, quy hoạch nguồn nhân lực chưa được quan tâm đúng mức, khả năng hạn chế rủi ro tín dụng sẽ rất khó khăn.

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG DNVVN TẠI VIETCOMBANK THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - TÀI CHÍNH THẾ GIỚI‌‌


I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA VIETCOMBANK VỀ CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG ĐẾN NĂM 2015

1 Quan điểm

Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam đã đề ra nguyên tắc về việc xây dựng chính sách tín dụng cho giai đoạn sắp tới: chính sách tín dụng có tác dụng đảm bảo việc tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc sau đây khi cấp tín dụng cho khách hàng:

Tuân thủ pháp luật: tất cả cán bộ, nhân viên của Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương có trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật trong hoạt động tín dụng và các quy định có liên quan. Việc cấp tín dụng cho khách hàng dựa trên cơ sở lợi ích chính đáng và hợp pháp của Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương, không được lợi dụng tài sản và uy tín của Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương vì mục đích cá nhân trong hoạt động tín dụng.

Phù hợp với chiến lược hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương trong từng thời kỳ: mở rộng và phát triển tín dụng phải dựa trên cơ sở chiến lược, định hướng kinh doanh tại từng thời kỳ và có sự kết hợp với các bộ phận khác trong toàn bộ hệ thống.

Vừa tôn trọng quyền tự quyết của Giám đốc Chi nhánh vừa đảm bảo mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng: chính sách tín dụng vừa đảm bảo an toàn tín dụng, song vừa đảm bảo tính linh hoạt trong hoạt động thực tế, dành cho chi nhánh khả năng nắm bắt tốt nhất các cơ hội phát triển đầu tư tín dụng theo mục tiêu, định hướng kinh doanh trong từng giai đoạn.

Quan điểm bình đẳng và hướng tới khách hàng: trong cấp tín dụng, Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương thực hành thống nhất chính sách khách hàng, không phân biệt thành phần kinh tế, hình thức sở hữu (ngoại trừ trường hợp cấp tín dụng theo chỉ định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước) phù hợp với hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường. Các ưu đãi trong tín dụng chỉ căn cứ vào năng lực tài chính, uy tín, mức độ rủi ro và thiện chí trả nợ của bản thân khách hàng.

Đề cao trách nhiệm cá nhân: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương đề cao trách nhiệm cá nhân nhằm nâng cao tính minh bạch và chất lượng trong hoạt động tín dụng. Các cá nhân được giao quyền quyết định phải tự chịu trách nhiệm trước hết đối với quyết định của mình.

Chính sách quản lý rủi ro tín dụng: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương đã ban hành Quyết định số 57/QĐ-NH TMCP NT.HĐQT ngày 22/03/2007 về việc xây dựng Chính sách quản lý rủi ro tín dụng nhằm mục đích:

- Thống nhất cơ chế quản lý rủi ro tín dụng trong toàn hệ thống;

- Tạo môi trường quản lý rủi ro tín dụng minh bạch và hiệu quả;

- Đảm bảo hoạt động kinh doanh phát triển bền vững, chủ động đối phó với rủi ro tín dụng;

- Xác định và phân chia trách nhiệm quản lý rủi ro tín dụng đối với từng cấp bậc trong ngân hàng.

Quan điểm tổng quát của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương về rủi ro tín dụng:

- Không tập trung cấp tín dụng quá cao cho 1 khách hàng, 1 ngành nghề/lĩnh vực; các nhóm khách hàng, ngành nghề/lĩnh vực có liên quan với nhau; 1 loại tiền tệ và tại một địa bàn.

- Khi quyết định cấp tín dụng cho một dự án lớn phải được thực hiện theo chế độ tập thể (nhiều thành viên cùng tham gia quyết định cho vay thông qua nhiều mức xét duyệt và biểu quyết hoạt động của Hội đồng tín dụng), bảo đảm tính khách quan trong việc cấp tín dụng.

- Áp dụng hạn mức quyết định cấp tín dụng và/hoặc thời hạn cấp tín dụng tùy thuộc vào năng lực của Chi nhánh.

Chính sách quản lý rủi ro tín dụng là văn bản cao nhất trong lĩnh vực quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam. Trong chính sách quản lý rủi ro tín dụng, Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam phân định rõ bộ máy tổ chức quản lý rủi ro tín dụng; thẩm quyền ban hành các văn bản quản lý rủi ro tín dụng; chính sách quản lý tín dụng đối với khách hàng; chính sách phân bổ tín dụng; chính sách về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng; thẩm quyền phán quyết; quy định về báo cáo và kiểm tra giám sát rủi ro. Đây là những cơ sở quan trọng cho các Chi nhánh trong thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng.


79

Hình thức quản trị rủi ro tín dụng:

Hội đồng quản trị ban hành các văn bản nhằm tạo môi trường quản lý rủi ro tín dụng chung, đề ra các mức rủi ro có thể chấp nhận được và phê duyệt chiến lược rủi ro từng thời kỳ. Hội đồng quản trị cũng ban hành Quy chế/quy định cho vay, Quy chế/quy định bảo lãnh, Quy chế/quy định bảo đảm tiền vay, Quy chế/quy định miễn giảm lãi đối với khách hàng…

Tổng Giám đốc ban hành các văn bản có tính chất hướng dẫn, triển khai các quy định của Hội đồng quản trị liên quan đến quản lý rủi ro tín dụng như quy trình tín dụng, cẩm nang tín dụng, chính sách phân bổ tín dụng trong từng thời kỳ, các quy định liên quan về việc đo lường và nhận biết rủi ro, thẩm quyền xét duyệt…

2 Mục tiêu

Hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro nhưng ngân hàng không thể chối bỏ rủi ro, tức là không cho vay, mà chỉ có thể tìm cách để hoạt động tín dụng trở nên an toàn hơn và hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất thông qua nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng. Do vậy, quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương cần phải đáp ứng được các mục tiêu sau:

- Giảm thiểu rủi ro tín dụng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng nhưng đảm bảo tăng trưởng theo chính sách và định hướng tín dụng đã đề ra. Mục tiêu về chất lượng tín dụng là tỷ lệ nợ xấu dưới 2%, tăng trưởng tín dụng đạt mức 25 - 30%/năm.

- Phân tán rủi ro trong danh mục đầu tư tín dụng theo định hướng lựa chọn những ngành nghề, lĩnh vực và nhóm khách hàng có khả năng phát triển và đạt hiệu quả; không đầu tư quá mạnh, đầu tư theo phong trào vào một nhóm ngành hàng/khách hàng cho dù ngành nghề/khách hàng đó đang có sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ nhưng có khả năng bão hòa hoặc cung vượt cầu trong tương lai.

- Tăng khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương thông qua nâng cao chất lượng thẩm định và tăng cường kiểm soát, giám sát liên tục, toàn diện và kịp thời trong quá trình cấp tín dụng.

- Xây dựng cơ chế xử lý nợ xấu linh hoạt, hiệu quả, nhằm giữ được sự hợp tác của khách hàng trong quá trình xử lý nợ xấu, giảm tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và hướng đến các chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro tín dụng.

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG DNNVV TẠI VIETCOMBANK THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - TÀI CHÍNH THẾ GIỚI‌

1 Hoàn thiện Tổ chức bộ máy cấp tín dụng & Quy trình tín dụng


1.1 Vcơ cu tchc bmáy cp tín dng doanh nghip nhvà va

Hiện nay, cơ cấu tổ chức bộ máy cấp tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa của Vietcombank vẫn còn tồn tại một số bất cập, cần được dần dần khắc phục qua hai giai đoạn: trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế và hậu khủng hoảng kinh tế.

Có thể thấy rõ hiệu quả hoạt động được thể hiện qua lợi nhuận. Lợi nhuận bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố: doanh thu (tăng trưởng tín dụng) và chi phí (chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng). Nếu xét trên góc độ quản trị rủi ro, thì cần giảm thiểu chi phí để tăng lợi nhuận và qua đó sẽ nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro. Do tác động của cuộc khủng hoảng, cả khách hàng và ngân hàng đều rất thận trọng trong việc đi vay và cho vay khiến cho doanh thu tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa của Vietcombank rất khó tăng trưởng – đây là yếu tố khách quan. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu gia tăng – chủ yếu do các yếu tố chủ quan – làm tăng chi phí trích lập dự phòng rủi ro. Vì vậy khi cuộc khủng hoảng vẫn đang diễn ra, Vietcombank cần chú trọng hơn vào chất lượng tín dụng (giảm tỷ lệ nợ xấu) so với việc mở rộng quy mô tín dụng, đồng thời xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy cấp tín dụng theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả.

Cơ cấu tổ chức cấp tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua 2 bộ phận như hiện tại là hết sức phù hợp, vừa giúp tinh giản bộ máy, vừa giảm thiểu số nhân viên, do đó góp phần tiết kiệm chi phí hoạt động. Tuy nhiên, chất lượng thẩm định rủi ro và hiệu quả kiểm tra, giám sát các khoản tín dụng của cán bộ cần được nâng cao. Vietcombank có thể tận dụng thời gian công việc chưa dồn dập để đưa các cán bộ tín dụng trẻ đi đào tạo nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực cho tương lai. Mô hình phòng tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện đang được thí điểm tại Sở giao dịch và tại Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh cũng chưa cần triển khai áp dụng tại các chi nhánh khác trong thời điểm này mà nên được tối ưu hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động. Như vậy, khi mô hình được áp dụng cho các chi nhánh khác sẽ đạt được thành công lớn hơn.

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 07/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí