Một Số Hình Thức Tín Dụng Ngân Hàng Chủ Yếu Trong Nền Kinh Tế


1.2.1.3 Một số hình thức tín dụng ngân hàng chủ yếu trong nền kinh tế

Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ kéo theo mối quan hệ tín dụng ngân hàng ngày càng đa dạng và phức tạp thông qua các hình thức khác nhau, trong đó có ba hình thức tín dụng ngân hàng cơ bản sau:

- Tín dụng bổ sung vốn lưu động:

Đây là loại hình tín dụng đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn lưu động phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp: vay phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu, vay mua nguyên liệu sản xuất, vay mua hàng hóa nhập kho …. Với hình thức này, một số sản phẩm cho vay được các ngân hàng thương mại áp dụng: Cho vay sản xuất kinh doanh, Bao thanh toán nội địa, Cho vay sản xuất kinh doanh trả góp, Tài trợ thương mại trong nước, Cho vay ứng trước tiền bán hàng dành cho khách hàng thu hộ ....

- Cho vay đầu tư tài sản hoặc dự án:

Đây là loại hình tín dụng đáp ứng nhu cầu mua sắm máy móc thiết bị, đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư dự án mới của các doanh nghiệp. Một số sản phẩm cho vay được các ngân hàng thương mại áp dụng: Cho vay đầu tư tài sản hoặc dự án, Cho vay hỗ trợ các doanh nghiệp bằng nguồn vốn ủy thác, Tài trợ mua xe ôtô doanh nghiệp ….

- Bảo lãnh:

Đây là loại hình tín dụng mà ngân hàng làm trung gian nhằm giúp cho các doanh nghiệp thuận lợi trong việc ký kết các hợp đồng sản xuất kinh doanh, bằng việc ngân hàng đứng ra đảm bảo thanh toán cho các doanh nghiệp để thực hiện hợp đồng.

1.2.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.

Ngân hàng thương mại được coi là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.

Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại, hoạt

Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 6

động tín dụng là hoạt động đóng góp lợi nhuận nhiều nhất cho ngân hàng.


Nhìn một cách khái quát, hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại bao gồm hai mặt: Một mặt là tạo lập nguồn vốn, mà trước hết và chủ yếu là từ việc huy động vốn tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội. Mặc khác là sử dụng nguồn vốn đã được tạo lập để cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế.

1.2.2.1 Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại

 Mở tài khoản và nhận tiền gửi

Trong giao dịch giữa ngân hàng thương mại và khách hàng, việc mở tài khoản được coi là dịch vụ đơn giản nhất, nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng. Nó mở đầu và đặt cơ sở cho các dịch vụ đa dạng mà mỗi ngân hàng thương mại sẽ cung cấp cho khách hàng của mình trong suốt thời gian tồn tại giao dịch giữa các bên.

Trong suốt thời gian tồn tại của tài khoản tại ngân hàng, trên tài khoản của khách hàng luôn tồn tại một số dư nhất định để sẵn sàng thực hiện các dịch vụ cần thiết tại ngân hàng. Với ngân hàng, số dư trên tài khoản của khách hàng đã tạo ra nguồn vốn huy động mà ngân hàng có thể sử dụng vào hoạt động cho vay của mình.

Tùy theo từng đối tượng khách hàng và trên cơ sở nhu cầu của họ, ngân hàng thương mại có thể mở các loại tài khoản chủ yếu: Tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn

….

Số dư trên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tạo ra nguồn vốn huy động cho ngân hàng với chi phí thấp. Tuy nhiên, nguồn huy động này cũng bộc lộ nhược điểm là không ổn định, do đó ngân hàng không chủ động được nguồn vốn cho vay của mình.

 Phát hành chứng chỉ tiền gửi

Bên cạnh nguồn vốn huy động thông qua dịch vụ mở tài khoản và nhận tiền gửi các loại, để có thể bổ sung thêm nguồn vốn cho vay một cách chủ


động, ngân hàng thương mại thường tổ chức các đợt phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu hoặc trái phiếu ngân hàng. Khách hàng mua các loại chứng khoán này cũng có nghĩa là đã cho ngân hàng vay một khoản vốn với lãi suất và thời hạn được xác định trước trên chứng khoán đó.

Có thể thấy được ưu điểm nổi trội của cách thức huy động vốn này là ngân hàng có thể chủ động về thời điểm tạo vốn, thời hạn của nguồn vốn, khối lượng vốn, lãi suất huy động vốn … phù hợp với nhu cầu cho vay.

 Vay từ các tổ chức tài chính tín dụng khác

Ngoài nguồn vốn huy động thông qua các hoạt động nêu trên, ngân hàng thương mại còn tạo cho mình nguồn vốn cho vay thông qua nghiệp vụ đi vay. Một ngân hàng thương mại có thể vay các ngân hàng thương mại khác trên thị trường liên ngân hàng, vay các tổ chức tài chính tiền tệ trên thị trường tài chính quốc tế.

Tuy nguồn vốn đi vay này không phải là nguồn chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn cho vay của ngân hàng thương mại, song nó lại có ý nghĩa khá quan trọng trong việc tạo khả năng thanh khoản kịp thời cho ngân hàng.

1.2.2.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

- Các loại cho vay của ngân hàng thương mại

 Căn cứ vào thời hạn cho vay

Cho vay ngắn hạn: loại cho vay có thời hạn cho vay đến một năm, được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.

Cho vay trung dài hạn: loại cho vay có thời hạn cho vay hơn một năm, chủ yếu sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng thiết bị sản xuất kinh doanh, xây dựng dự án kinh doanh, xây dựng nhà ở, mua phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng xí nghiệp mới. Trong nông nghiệp, cho vay trung dài hạn chủ yếu đầu


tư vào các đối tượng: mua máy cày, máy xay sát, xây dựng hệ thống mươn tưới, cải tạo vườn tạp.

 Căn cứ vào mục đích cho vay

Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: Cấp cho các chủ thể kinh doanh nhằm hỗ trợ mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Tín dụng tiêu dùng: Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân.

 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng cho vay

Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc không cần sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng xin vay. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần có sự bảo đảm về nguồn thu nợ bổ sung.

Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng trên cơ sở người vay phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với các khách hàng không được đánh giá tốt về năng lực tài chính và các yếu tố khác, không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có sự bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ để ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai bổ sung cho nguồn thu thứ nhất thiếu chắc chắn.

 Căn cứ vào đối tượng dùng để cấp tín dụng

Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là loại hình cho vay chủ yếu của các ngân hàng và thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau như: tín dụng ứng trước, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp ….

Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay tài sản phổ biến và đa dạng, đối với ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến là hình thức tài trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này, ngân hàng hoặc công ty thuê mua (công ty con của ngân hàng) cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay


và được gọi là người đi thuê, theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi.

 Căn cứ vào phương pháp hoàn trả

Cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng cho vay bất động sản nhà ở, vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ có thu nhập thường xuyên.

Cho vay phi trả góp: Là loại cho vay được thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thỏa thuận.

 Căn cứ phương thức cho vay

Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là số dư nợ cho vay cao nhất mà ngân hàng cam kết sẽ thực hiện cho một khách hàng, có hiệu lực trong một thời gian nhất định, thường là 1 năm. Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở nhu cầu vay vốn của khách hàng và khả năng đáp ứng của ngân hàng. Khi đã được ngân hàng ấn định hạn mức tín dụng thì khách hàng được quyền vay vốn với số dư trong phạm vi của hạn mức tín dụng đó. Nếu khách hàng vay trả nhiều đợt trong kỳ thì tổng số tiền cho vay có thể vượt quá hạn mức tín dụng nhiều lần, điều này càng tốt vì vòng quay vốn tín dụng gia tăng. Cho vay theo hạn mức tín dụng có đặc điểm sau:

Luân chuyển vốn tín dụng tham gia toàn bộ vào vòng quay vốn của doanh nghiệp, từ khâu dự trữ đến khâu sản xuất và lưu thông.

Vốn tín dụng phát sinh theo nhu cầu của quá trình tuần hoàn luân chuyển vốn mà không phụ thuộc vào tình hình dự trữ vật tư, hàng hóa của đơn vị.

Do vốn tín dụng tham gia vào toàn bộ quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp nên các thủ tục cho vay được thực hiện đơn giản dần, tạo điều kiện cho đơn vị nhận được vốn kịp thời.


Cho vay từng lần: Áp dụng cho các đơn vị tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn không thường xuyên có tính chất đột xuất, không được ấn định hạn mức tín dụng. Cho vay từng lần có đặc điểm sau:

Vốn tín dụng chỉ tham gia vào một giai đoạn hay một quy trình nhất

định trong chu kỳ sản xuất kinh doanh, chu kỳ luân chuyển vốn của đơn vị.

Về phía ngân hàng việc cho vay và thu nợ được xử lý theo từng món

vay.

Mỗi lần phát sinh nhu cầu vay vốn bắt buộc bên vay phải tiến hành các

thủ tục làm đơn xin vay kèm theo các chứng từ hóa đơn xin vay để cán bộ tín dụng kiểm tra đối tượng vay vốn, nếu đối tượng vay vốn phù hợp sẽ giải quyết cho vay.

Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là một kỹ thuật cấp tín dụng cho khách hàng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt số dư có trên tài khoản thanh toán của khách hàng để thực hiện các giao dịch thanh toán kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Để được vay theo phương thức này, khách hàng phải là những khách hàng quen biết, thường xuyên giao dịch qua ngân hàng, tình hình tài chính tương đối ổn định.

Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Thẻ tín dụng là loại thẻ ngân hàng phát hành cho những khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, hoặc rút tiền mặt tại các ATM trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp thuận trong hợp đồng tín dụng.

Cho vay hợp vốn: Là loại hình cho vay, trong đó một nhóm ngân hàng thương mại cùng tham gia tài trợ chung một dự án vay. Trong đó một ngân hàng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp các ngân hàng còn lại để cùng cho vay. Loại hình này áp dụng trong trường hợp dự án có qui mô vốn lớn, vượt quá khả năng tài trợ của một ngân hàng hoặc vượt quá qui định giới hạn của luật pháp. Nó cũng được sử dụng với mục tiêu phân tán rủi ro của ngân hàng.


Chiết khấu chứng từ có giá: Ngân hàng thương mại đứng ra trả trước các hối phiếu hoặc các chứng từ có giá khác chưa đến hạn thanh toán theo yêu cầu của người thụ hưởng bằng cách khấu trừ ngay một số tiền nhất định được gọi là chiết khấu, số tiền khấu trừ được tính theo trị giá chứng từ, thời hạn chiết khấu, lãi suất và các tỷ lệ chiết khấu khác, số tiền còn lại thanh toán cho người thụ hưởng.

Người thụ hưởng muốn nhận số tiền này thì bắt buộc phải làm thủ tục chuyển nhượng quyền hưởng lợi cho ngân hàng chiết khấu đối với các chứng từ xin chiết khấu.

Trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp sở hữu chứng từ. Nhưng khi chứng từ đến hạn ngân hàng lại gửi chứng từ đi để đòi tiền người có nghĩa vụ trả tiền.

Bảo lãnh ngân hàng: Là hình thức cấp tín dụng được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản của ngân hàng với bên thụ hưởng bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình, khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên thụ hưởng bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả lại cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.

Bao thanh toán: Là nghiệp vụ tín dụng gián tiếp của ngân hàng thương mại, theo đó, ngân hàng thương mại đồng ý cung cấp tín dụng cho nhà cung cấp nếu nhà cung cấp xuất trình một bộ chứng từ thanh toán, trên cơ sở hợp đồng thương mại đã ký kết với bên mua. Nói cách khác, bao thanh toán là việc ngân hàng thương mại đứng ra trả tiền ngay cho nhà cung cấp, theo bộ chứng từ mà nhà cung cấp xuất trình. Sau đó, ngân hàng sẽ đòi tiền người mua theo hợp đồng bao thanh toán đã ký kết. Chênh lệch giữa số tiền trên chứng từ hóa đơn và số tiền ứng trước là khoản thu nhập của ngân hàng.


- Qui trình cho vay

Nhằm đảm bảo hoạt động cho vay được tiến hành một cách khoa học theo một trình tự hợp lý, trên cơ sở đó hạn chế tối đa rủi ro khi cấp tín dụng, tiết kiệm thời gian, chi phí, tránh phiền hà … các ngân hàng thương mại thường xây dựng qui trình cho vay. Trên thực tế, mỗi ngân hàng thương mại có thể xây dựng cho mình một quy trình cho vay riêng, phù hợp với đặc điểm tình hình của mình. Tuy nhiên, về cơ bản nội dung của qui trình cấp tín dụng bao gồm bảy bước chủ yếu sau đây:

Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ tín dụng. Khách hàng có nhu cầu vay lập bộ hồ sơ đề nghị ngân hàng phục vụ mình xem xét đáp ứng nhu cầu vay vốn của mình.

Bước 2: Thẩm định hồ sơ tín dụng. Đây là bước có ý nghĩa rất quan trọng để ngân hàng có thể đi đến quyết định có cho khách hàng vay hay không? Mức cho vay bao nhiêu? Thời hạn cho vay bao lâu, lãi suất bao nhiêu? ….

Bước 3: Ra quyết định tín dụng. Với những kết quả sau khi thẩm định và phân tích tín dụng, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hay từ chối cho vay đối với hồ sơ vay vốn của khách hàng đã được thẩm định.

Bước 4: Giải ngân. Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết giữa ngân hàng và khách hàng, việc giải ngân cho khách hàng vay được ngân hàng thực thi theo điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng.

Bước 5: Kiểm tra sử dụng vốn vay. Kiểm tra sử dụng vốn vay nhằm phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc giá trị tài sản đảm bảo không còn đủ đáp ứng yêu cầu.

Bước 6: Đôn đốc thu hồi nợ. Căn cứ kỳ hạn trả nợ đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, cán bộ tín dụng nhắc nhở khách hàng để có thể thực hiện thu hồi nợ theo đúng kỳ hạn thỏa thuận.

Xem tất cả 217 trang.

Ngày đăng: 04/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí