Bốn là, khách hàng không đủ vốn lưu động để kinh doanh. Rủi ro này thường thấy trong các khoản vay có đặc điểm:
- Khi cho vay không tính đúng, tính đủ nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Rủi ro: khách hàng thiếu vốn để thực hiện phương án kinh doanh nên kế hoạch kinh doanh không hiệu quả.
- Khách hàng có hệ số nợ vay/vốn tự có cao. Rủi ro: tiềm lực về vốn của khách hàng quá thấp, khách hàng không có đủ vốn để trả nợ.
Năm là, khách hàng không có đủ hoặc không thu xếp được nguồn vốn như kế hoạch. Rủi ro này thường thấy trong các khoản vay có đặc điểm:
- Cho vay ngắn hạn, mở L/C bảo lãnh nhập khẩu máy móc thiết bị khi chưa thẩm định tổng thể phương án kinh doanh của khách hàng. Rủi ro: nếu các khâu khác trong quy trình tổng thể không thực hiện tốt, phương án kinh doanh sẽ không tiến hành được, như vậy vốn vay cũng khó thu hồi.
- Triển khai thực hiện phương án kinh doanh tại thời điểm thị trường tài chính quá thuận lợi. Rủi ro: khách hàng chủ quan trong tính toán tính khả thi của việc thu xếp nguồn vốn.
Sáu là, không đánh giá đúng tình trạng tổng thể của khách hàng. Rủi ro này thường thấy trong các khoản vay có đặc điểm:
- Khách hàng không minh bạch về các thông tin tài chính, thể hiện trong việc không công khai về các khoản thuế phải thanh toán, giao dịch không có hóa đơn, chứng từ, báo cáo tài chính không chuẩn xác.
- Thực tế khách hàng bị lỗ nhiều năm nhưng trên báo cáo tài chính (thường là không có kiểm toán) vẫn có lãi (dấu hiệu thường thấy là giá trị các khoản phải thu, hàng tồn kho tăng đột biến, giá trị lớn).
- Trong nhiều năm liên tục, giá bán sản phẩm của khách hàng không đủ để bù đắp chi phí biến đổi.
- Các phương án từng lần trong cho vay theo hạn mức tín dụng đều có lãi, nhưng tổng hợp cả năm thì lỗ.
Bảy là, do thay đổi chính sách thường xảy ra ở các khoản vay. Rủi ro này thường thấy trong các khoản vay có đặc điểm:
- Kinh doanh thương mại nhập hàng về bán trong nước (ô tô, xe máy, gỗ tròn…). Chính sách về thuế của Nhà nước đối với các mặt hàng này thường xuyên thay đổi. Rủi ro: thuế tăng cao, hàng hóa khó tiêu thụ được.
Tám là, khách hàng đầu cơ theo giá trị tài sản. Rủi ro này thường thấy trong các khoản vay có đặc điểm:
- Dùng tài sản là bất động sản (máy móc, nhà xưởng… ) hoặc chứng khoán thế chấp để vay vốn với mục đích khác nhau mà ngân hàng không kiểm soát được.
- Cho vay với nguồn trả nợ dựa quá nhiều vào giá trị tài sản thế chấp. Tuy nhiên, phần lớn tài sản bảo đảm tiền vay là nhà xưởng, máy móc thiết bị, các quyền đòi nợ… mà tính pháp lý chưa rõ ràng cũng như thanh khoản kém nên khả năng thu hồi để giảm tổn thất khi rủi ro xảy ra chưa cao.
Chín là, khách hàng chủ đích lừa đảo. Rủi ro này thường thấy trong các khoản vay có đặc điểm:
- Các doanh nghiệp thành lập nhiều công ty trong cùng một nhóm để vay vốn, chủ doanh nghiệp là người nước ngoài, Việt kiều đầu tư nhập khẩu máy móc thiết bị.
- Tính phức tạp trong hoạt động kinh tế với sự gia tăng các vụ lừa đảo tinh vi đã gây nên rủi ro cho công tác tín dụng, đặc biệt trong điều kiện tình trạng thông tin bất cân xứng mà chưa có hệ thống thông tin tín dụng hữu hiệu để hạn chế những rủi ro đó.
Bên cạnh những nguyên nhân từ phía khách hàng làm ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ vay, có nhiều nguyên nhân khác thuộc về phía ngân hàng. Đó có thể là những nguyên nhân liên quan đến con người hoặc do quy trình cho vay chưa được hợp lý.
Điều đáng chú ý nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng DNNVV của Vietcombank phần lớn còn trẻ, kinh nghiệm thực tế còn ít nên sự tự chủ, tính độc lập trong thẩm định và quyết định cho vay rất hạn chế, dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng. Đôi khi, do năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế nên một số phương án kinh doanh không được thẩm định chính xác về năng lực vốn, năng lực của chủ doanh nghiệp nên phương án không đạt hiệu quả, không thể trả nợ vay ngân hàng. Mặt khác, nếu cán bộ tín dụng xác định giới hạn tín dụng không hợp lý, quá cao so với khả năng chịu nợ hoặc so với nhu cầu vốn của khách hàng, khách hàng sẽ không có khả năng trả nợ hoặc dùng vốn vay sai mục đích. Trong khi đó, quá trình kiểm tra, giám sát sau khi cho vay của ngân hàng còn tồn tại nhiều sơ hở, sai sót nên không thể
giám sát được việc sử dụng vốn vay của khách hàng cũng như không kịp thời thu hồi được tiền hàng để thu nợ.
4 Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank
4.1 Chính sách tín dụng
Từ những rủi ro đã gặp phải trong quá trình kinh doanh những năm qua, hiện nay trong hoạt động tín dụng nói chung, Vietcombank đang thực hiện “Tăng trưởng tín dụng trên cơ sở tập trung nâng cao chất lượng và hướng tới các chuẩn mực quốc tế” với một số định hướng cơ bản: Tiếp tục tăng cường quản trị rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng, mở rộng tín dụng an toàn, tập trung vào các dự án thật sự khả thi và hiệu quả, đồng thời với việc tập trung giải quyết nợ xấu và kiểm soát chặt chẽ nợ quá hạn; Chú trọng đầu tư tín dụng cho các DNNVV, cho vay bán lẻ, giảm dần cho vay đối với các doanh nghiệp Nhà nước là khách hàng truyền thống của Vietcombank nhưng tình hình tài chính chưa tốt, khả năng phát triển kinh doanh hạn chế, mạnh dạn cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; Chú trọng công tác thẩm định tín dụng và nâng tỷ lệ cho vay có bảo đảm để tăng trách nhiệm của khách hàng cũng như hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra. Phối kết hợp các dịch vụ ngân hàng đồng bộ để nâng cao chất lượng phục vụ, đồng thời tăng cường khả năng thu hồi nợ; Tăng cường các giải pháp marketing, phát triển thương hiệu. Có chính sách hợp lý để tiếp cận các dự án đầu tư, các khách hàng trong các cụm công nghiệp và khu công nghiệp tập trung.
Trong những định hướng phát triển của Vietcombank thì “chú trọng đầu tư tín dụng cho các DNNVV” luôn được ban lãnh đạo nhấn mạnh. Trong năm 2008 vừa qua, thể hiện sự quyết tâm mở rộng thị trường tín dụng cho các DNNVV đồng thời góp phần hỗ trợ sự phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn khó khăn, Vietcombank đã quyết định dành thêm 3,000 tỷ đồng trong kế hoạch phát triển tín dụng năm 2008 để đẩy mạnh Chương trình cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa và đã luôn dẫn đầu trong thực hiện cắt giảm lãi suất cho vay. Mức lãi suất cho vay của Vietcombank trong những tháng cuối năm 2008 là thấp nhất trong khối các ngân hàng thương mại.
Bảng 2 - 8 Lãi suất cho vay VND tại Vietcombank cuối 2008 - đầu 2009
1/10 | 21/10 | 5/11 | 17/11 | 21/11 | 2/12 | 5/12 | 22/12 | 1/2 |
Có thể bạn quan tâm!
- Ả Nh H Ưở Ng C Ủ A Cu Ộ C Kh Ủ Ng Ho Ả Ng T À I Chính Đế N N Ề N Kinh T Ế Th Ế Gi Ớ I
- Một Số Chỉ Tiêu Về Kết Quả Hoạt Động Của Các Nhtm Việt Nam 2008
- Dư Nợ Cho Vay Đối Với Các Dnnvv Tại Vietcombank Giai Đoạn 2005-2008
- Đánh Giá Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Tại Vietcombank
- Hoàn Thiện Các Văn Bản Liên Quan Đến Cấp Tín Dụng
- Củng Cố Và Hoàn Thiện Hệ Thống Thông Tin Tín Dụng
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
14 | 13 | 12 | 12 | 11 | 11 | 10 | 8.5 | 8.5 | |
LS thường | 19.5 | 18.5 | 16 | 16 | 13.5 | 13 | 12.48 | 11 | 10 |
LS ưu đãi | 18.525 | 17.205 | 15.2 | 13.5 | 12 | 11 | 10.5 | 8.5 | 8.5 |
LSCB
(Nguồn: vietcombank.com.vn)
4.2 Chính sách quản lý rủi ro tín dụng cho các DNNVV tại Vietcombank
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh rủi ro, luôn đi cùng với rủi ro, bởi vậy cần có các biện pháp quản trị rủi ro hiệu quả. Nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng, hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam đều đã xây dựng cho mình các chính sách quản lý rủi ro tín dụng rõ ràng, cụ thể và luôn thích nghi với thực tế.
Chính sách quản lý rủi ro tín dụng của Vietcombank xác định mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo nguyên tắc toàn diện, liên tục ở tất cả các giai đoạn có khả năng phát sinh rủi ro, thông qua các quy định cụ thể của từng nghiệp vụ tín dụng. Chính sách áp dụng cho hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm những vấn đề lớn sau đây:
Giới hạn tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa
Giới hạn tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa tuân thủ các quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh đối với khách hàng theo Quyết định số 296/1999/QĐ-NHNN5 - Quyết định của Thống đốc NHNN Việt Nam về giới hạn cho vay đối với một khách hàng của tổ chức tín dụng.
Cán bộ tín dụng thực hiện xếp hạng tín dụng của khách hàng theo quy định về xếp hạng tín dụng nội bộ của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam nhằm lượng hóa mức độ rủi ro của từng khách hàng; theo đó sẽ xác định giới hạn tín dụng nhằm quản lý tổng mức rủi ro tín dụng, bao gồm xác định giới hạn tín dụng tổng thể và giới hạn tín dụng từng lần vay. Xếp hạng tín dụng nội bộ có 10 hạng: AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C, D, những khách hàng có mức xếp hạng tín dụng từ CC trở xuống sẽ không cho vay. Cơ cấu điểm, mức điểm, kỹ thuật chấm điểm áp dụng trong xếp hạng tín dụng được cải tiến liên tục thông qua thực tiễn triển khai để phù hợp với thực tế.
Quy định về hạn chế cấp tín dụng đối với khách hàng: tuân thủ các quy định của pháp luật các trường hợp không được cấp tín dụng và hạn chế cấp tín dụng, đồng thời
thực hiện chủ trương giảm dư nợ tín dụng, hạn chế cấp tín dụng mới đối với các khách hàng có dấu hiệu rủi ro (được quy định cụ thể cho từng loại khách hàng).
Chính sách phân bổ tín dụng
Tín dụng được phân bổ theo vùng địa lý: thực hiện phân chia phạm vi cấp tín dụng theo khu vực địa lý dựa trên năng lực, vị trí của từng Chi nhánh; chủ trương ưu tiên mở rộng hoạt động tín dụng tại những nơi có điều kiện mở rộng tín dụng và chất lượng tín dụng bảo đảm, khống chế dư nợ tín dụng tối đa đối với những chi nhánh có chất lượng tín dụng thấp.
Tín dụng được phân bổ bảo đảm sự phù hợp giữa cơ cấu kỳ hạn và loại tiền vay với cơ cấu nguồn vốn, đa dạng hóa các sản phẩm, đa dạng hóa các đối tượng khách hàng vay theo nguyên tắc hạn chế tối đa rủi ro, đa dạng hóa mặt hàng và lĩnh vực đầu tư theo nguyên tắc phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế.
Thẩm quyền phán quyết
Thẩm quyền phán quyết bao gồm thẩm quyền phê duyệt giới hạn tín dụng, thẩm quyền ra quyết định cấp tín dụng, thẩm quyền ký kết hợp đồng tín dụng. Các thẩm quyền này được phân theo từng cấp bậc trong Vietcombank (Vietcombank quy định cụ thể thẩm quyền phán quyết của Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc/Phó Tổng Giám đốc phụ trách tín dụng, các Trưởng/Phó phòng chức năng tại Hội sở chính, Hội đồng tín dụng cơ sở, Giám đốc Chi nhánh…).
Thẩm quyền phán quyết tín dụng được thực hiện theo Quy định về thẩm quyền phê duyệt GHTD/cấp tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 44/QĐ-VCB.CSTD ngày 08/03/2007 của Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam. Trong trường hợp GHTD/cấp tín dụng vượt thẩm quyền về giá trị và/hoặc thời hạn thì Chi nhánh trình lên Hội sở chính phê duyệt.
Chính sách phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng
Vietcombank thực hiện phân loại nợ theo quy định của NHNN, đặc biệt những khoản nợ xấu sẽ tăng cường phân loại nợ, đánh giá khả năng trả nợ với tần suất nhiều hơn để phục vụ công tác quản lý chất lượng và rủi ro tín dụng. Định hướng của Vietcombank trong thời gian tới sẽ thực hiện phân loại nợ trên cơ sở xếp hạng khách hàng và tiến tới trích lập dự phòng theo thông lệ quốc tế tốt nhất.
Các quy định về báo cáo, kiểm tra, giám sát rủi ro
Tình hình chất lượng tín dụng trong toàn hệ thống được báo cáo theo định kỳ nhằm giúp ngân hàng kịp thời đánh giá công tác quản lý rủi ro, đồng thời đề xuất các biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng.
4.3 Bộ máy tổ chức cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tham gia trực tiếp vào hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa có các phòng chức năng tại Hội sở chính (phòng Chính sách tín dụng, Quan hệ khách hàng, Quản lý nợ) và tại các Chi nhánh (phòng Quan hệ khách hàng, Quản lý nợ). Giám đốc Chi nhánh phân công phê duyệt tín dụng trong Ban Giám đốc đối với các khoản tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng cho DNNVV của Vietcombank có trình độ chuyên môn, được đào tạo bài bản, tốt nghiệp các chuyên ngành kinh tế - tài chính - ngân hàng. Tuy nhiên đa số cán bộ tín dụng đều còn trẻ, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, chỉ có 40% cán bộ có thâm niên công tác trong ngành trên 3 năm. Nguyên nhân là do, hoạt động tín dụng tăng cao mà chưa có sự chuẩn bị đầy đủ về nguồn nhân lực, do cơ cấu lại nhân lực, mặt khác do cơ chế đãi ngộ chưa thỏa đáng dẫn đến hiện tượng một số cán bộ có năng lực và kinh nghiệm chuyển qua các tổ chức tín dụng khác.
4.4 Quy trình tín dụng
Hiện nay Vietcombank đang thực hiện song song 3 quy trình tín dụng dành cho các đối tượng khách hàng khác nhau: khách hàng là người tiêu dùng, khách hàng là các doanh nghiệp lớn và khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đối với khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Vietcombank hiện đang áp dụng Quy trình tín dụng Doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành theo Quyết định 36/QĐ-VCB.CSTD ngày 28/01/2008 của Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (gọi là Quy trình 36). Quy trình này được áp dụng đối với các khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Vietcombank trong từng thời kỳ.
Theo Quy trình 36, hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank được thực hiện qua 2 bộ phận độc lập là Phòng Quan hệ khách hàng và
Phòng Quản lý nợ. Thẩm quyền phê duyệt GHTD/cấp tín dụng thuộc về Giám đốc/Phó Giám đốc Chi nhánh.
Phòng Quan hệ khách hàng thực hiện chức năng bán hàng, là đầu mối dịch vụ một cửa cung cấp tất cả các sản phẩm dịch vụ và đưa ra chính sách giá tổng thể đối với khách hàng. Phòng Quan hệ khách hàng là nơi khởi tạo tín dụng, thực hiện thẩm định chuyên sâu và đề xuất ý kiến về thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng.
Phòng Quản lý nợ thực hiện quản lý và trực tiếp thực hiện các tác nghiệp liên quan đến việc giải ngân, thu hồi nợ, đảm bảo số liệu trên hệ thống khớp đúng với số liệu trên hồ sơ, lưu giữ hồ sơ và đảm bảo tính tuân thủ trong quy trình cấp tín dụng. Về cơ bản, Phòng Quản lý nợ sẽ tham gia vào quá trình kiểm soát giải ngân, đảm bảo sự độc lập và khách quan trong thực hiện các quyết định cấp tín dụng.
4.5 Bảo đảm tiền vay
Phương án kinh doanh khả thi, hiệu quả là tiêu chí quyết định trong việc xem xét cho vay. Tuy nhiên, rủi ro tiềm ẩn trong các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất lớn và đa dạng, nhiều rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của con người mà thẩm định tín dụng không thể lường hết được. Khách hàng cũng cần phải nâng cao tính chịu trách nhiệm và chia sẻ rủi ro với ngân hàng. Bởi thế, hầu hết các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank đều cần phải có bảo đảm, góp phần vào giảm thiểu tổn thất khi rủi ro xảy ra. Vietcombank rất chú trọng tăng cường áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay, đa dạng về hình thức: thế chấp, cầm cố tài sản, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay…
Trong thực tế, vấn đề sử dụng tài sản đảm bảo để hạn chế tổn thất của các khoản cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa gây ra rất nhiều khó khăn cho ngân hàng. Tài sản tự có của hầu hết các doanh nghiệp đều rất nhỏ (bình quân giá trị các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam là khoảng 1.33 tỷ đồng/doanh nghiệp). Hơn nữa, tính thanh khoản của các tài sản còn hạn chế nên khả năng thu hồi nợ còn thấp. Một số tài sản không có giấy tờ về quyền sở hữu (nhà xưởng, công trình xây dựng trên đất), một số tài sản là quyền đòi nợ mà khả năng kiểm soát nguồn thu rất khó khăn. Do đó, khi xử lý tài sản bảo đảm trên thực tế rất phức tạp, cả về mặt pháp lý cũng như khả năng chuyển nhượng tài sản, mất rất nhiều thời gian và công sức.
4.6 Phòng ngừa, phát hiện và hạn chế rủi ro tín dụng
Kiểm tra và phát hiện kịp thời các dấu hiệu rủi ro tín dụng là công việc không chỉ của các cán bộ tham gia vào quy trình cấp tín dụng mà còn được quán triệt đến từng cán bộ của Vietcombank. Tuy nhiên, thực tế những năm qua cho thấy, công tác phát hiện rủi ro tín dụng của Chi nhánh mang tính thụ động, chủ yếu là xử lý khi những dấu hiệu rủi ro đã xuất hiện (không trả được nợ đúng hạn, khách hàng có liên quan đến các vụ án, kinh doanh thua lỗ, kết quả phân loại nợ không tốt…), khả năng dự báo và phòng ngừa từ xa chưa tốt do sự hạn chế về trình độ, kinh nghiệm của cán bộ; hệ thống thông tin thị trường và nghiệp vụ xử lý thông tin qua các phân tích, dự báo chưa tốt; công tác kiểm tra sử dụng vốn còn hời hợt, chủ yếu dựa vào báo cáo trên giấy tờ do khách hàng cung cấp, đặc biệt là các khách hàng ở xa…
Để hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra, Vietcombank có chủ trương yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm khi thực hiện phương án hoặc khi kinh doanh xuất nhập khẩu. Giải pháp này đã phát huy tác dụng đáng kể khi thiên tai xảy ra, vốn rất thường xuyên ở nước ta, vì có nguồn hỗ trợ để bù đắp các tổn thất vốn vay.
4.7 Công tác xử lý nợ xấu
Để xử lý nợ xấu một cách hiệu quả, Ban giám sát xử lý nợ xấu của Vietcombank yêu cầu các Chi nhánh linh hoạt trong xây dựng các giải pháp xử lý nợ phù hợp với tình hình thực tế. Những giải pháp cơ bản đã được triển khai trong thời gian qua là:
Vietcombank đã thành lập Ban xử lý nợ xấu tại các chi nhánh gồm những thành viên là phụ trách phòng của các Phòng nghiệp vụ có liên quan để xây dựng kế hoạch và các biện pháp cụ thể, tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh các quyết định thích hợp để xử lý nợ xấu kịp thời và đúng tiến độ. Ban xử lý nợ xấu thực hiện họp định kỳ mỗi tháng một lần để đảm bảo việc kiểm tra, giám sát thực hiện các hoạt động xử lý nợ một cách toàn diện và liên tục.
Định hướng chung của Vietcombank trong xử lý nợ xấu là thực hiện các giải pháp hợp lý trên cơ sở phân tích tình hình của từng khách hàng cụ thể. Chủ trương của Vietcombank là thực hiện thương lượng, phối hợp với khách hàng trong xử lý nợ xấu để quá trình triển khai được nhanh chóng và ít tốn thời gian. Đối với các khách hàng