Đây là những địa danh mang tính biểu tượng, từ phương Bắc (Đông Kinh, đất Hác) đến phương Nam (Nam Định, Thanh Hoa) và cả những vùng lân bang (Nam Vang)...là nguồn cội, những nơi hình thành những vật phẩm, gốm sứ tinh sảo, thứ chè thơm ngon nức tiếng, những nơi đông vui, giàu sang, nơi có con người thật đẹp... Sự xuất hiện của những địa danh nói trên trong Thơ lẩu Hà Vị không nhiều, nhưng đem lại cho không gian Thơ lẩu một sự rộng mở, khoáng đạt, tựa như cuộc sống của chính con người nơi đây.
Không gian siêu nhiên còn gắn với đời sống tâm linh và quan niệm tín ngưỡng của người Tày Hà Vị. Đó trước hết là quan niệm về Vũ trụ:
Nhất khỏi chồm tôi hương li biệt cảnh Chút khửn pền tôi ẻn thông tin
Tứ Ngọc vàng lương đông thủy phủ
Chút tôi hương mừa ngự thượng cung
Kỉnh nhất niệm hương thông tam giới [16]
(Nhất tôi mừng đôi hương biệt cảnh/ Thắp lên thành đôi én thông tin/ Từ NgọcHoàng dương gian thủy phủ/ Đốt đôi hương lên ngự thượng cung/ Kính nhất niệm hương thông tam giới)
Đoạn thơ đã cho thấy, người Tày đã hình dung toàn bộ thế giới gồm có ba cõi - Tam giới gồm: cõi Trên – thượng cung nơi có Ngọc Hoàng cai quản, cõi Giữa – dương gian và cõi Dưới – thủy phủ ”. Cả ba cõi đều có sông núi, cây cỏ, ruộng đồng, trăm vật, trăm loài, hoạt động như nhau, chỉ khác về cách làm ăn. Tuy quan niệm có ba thế giới, nhưng thế giới dưới mặt đất ít được người Tày nhắc đến, mà chỉ hay nói đến mường trời và mường người hơn cả và nói về mường trời, thực ra cũng chỉ là để nói đến mường người mà thôi.
Trong Thơ lẩu, quan niệm đó được thể hiện khá rõ nét, trong đó không gian cõi trời là không gian siêu thực, là thế giới thần bí do con người tưởng tượng ra. Ở cõi ấy có Pụt, có Vua, Tiên, Thần cai quản, họ là đấng quyền uy,
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ Lẩu của người Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn - 11
- Thơ Lẩu của người Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn - 12
- Thơ Lẩu của người Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn - 13
- Thơ Lẩu của người Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn - 15
- Khách (Quan Làng): Xo Phục Pạt Xuyên Các
- Thơ Lẩu của người Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn - 17
Xem toàn bộ 165 trang tài liệu này.
tạo ra muôn loài và tạo dựng mọi sự: Ngọc Hoàng, Phục Hy, Bàn Cổ, Hoàng Đế Thần Nông, vua nhà Hán, mẹ Hoa...Người Tày cho rằng, tổ tiên họ mãi ở trên trời xanh, ngày hôn lễ muốn mời Tổ xuống cần nhờ vào chim én bay lên trời mời tổ xuống để cho con cháu lễ lạy, Tổ chứng nhận và phù hộ cho con cháu. Theo cánh én, cuộc sống ở mường trời được hiện ra với những chi tiết rất đời thường, gần gũi với cuộc sống dương gian: cửa nhà trời, đồng ruộng, hoa bướm, có trai tiên, gái tiên, những đồ vật võng, lọng, đàn bầu để đưa tổ xuống trần gian:"Rập rờn én bay vào trời thẳm/ Tới tấp đến cửa nhà trời/ Đồng ruộng đất mường trời hội loạn/...nàng tiên đi tấp nập hái hoa/ Gái tiên đi lại như hoa bướm/ Nhà tổ là cửa ở đông phương ../Én đón tổ đến nơi trần thế” [29].
Có thể nói, không gian siêu nhiên không phải là không gian chủ đạo nhưng nó đã góp phần đem lại cho Thơ lẩu màu sắc linh thiêng, huyền thoại. Bước vào không gian này, ta hiểu rõ thêm về thế giới tâm hồn và trí tưởng tượng phong phú của người Tày, qua đó, tiếp cận với đời sống tâm linh và những quan niệm tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm thức của tộc người này.
3.4.2.2 Không gian hiện thực
Không gian này chính là cõi trần - Theo quan niệm tam giới nói trên. So với không gian siêu nhiên, không gian trần thế, không gian đời thường bình dị chiếm tỉ lệ cao hơn và đóng vai trò chủ đạo trong không gian nghệ thuật của Thơ lẩu. Nó bao gồm không gian thiên nhiên và không gian sinh hoạt. Hai không gian này luôn gắn bó với nhau và gắn với những cung bậc tình cảm của con người trong không gian ấy.
Không gian thiên nhiên: con người miền núi vốn đã có mối quan hệ mật thiết, không thể tách khỏi thiên nhiên. Bầu trời cao xanh, những cánh rừng, những ngọn đồi, dòng suối, mương phai,..không chỉ là không gian sống của cỏ cây, hoa lá, muôn vật mà còn là những người bạn từ lâu đã gắn bó, hòa
hợp, ăn sâu và nếp nghĩ, tâm tư..của con người. Trong Thơ lẩu Hà Vị, không gian thiên nhiên ấy được phác họa qua hình ảnh của núi đá cao, rừng sâu, mây trắng, trăng non, chim gọi bạn...nhưng nhiều nhất là hình ảnh hoa cỏ, bướm, ong, tạo nên một không gian sống của muôn loài đang độ xuân về - đẹp nhất, đông vui, nhộn nhịp và cũng thật quyến rũ.
- Xuân nào chẳng có bướm tìm hoa/Bạn cũng như nhị hoa đang nở /Ong bướm đang hội chợ đón ngày/ Bạn cũng như trăng đang mọc/ Bao mây sao cũng muốn đến cùng.
- Có nụ như hoa bắp hoa chanh/ Nụ đỏ thêm nụ đen nụ thẫm/ Nụ thì nở như hoa mận đang ban/ Nụ thì như hoa lồm đang nở.(loại hoa đẹp ở rừng)
Sở dĩ, không phải tất cả không gian thiên nhiên miền núi mà ở đây, tác giả dân gian chỉ đặc biệt lựa chọn không gian sống của hoa, ong, bướm, chim muông có lẽ cũng bởi vì, hình ảnh ong bướm mùa xuân, tiếng chim gọi bạn, trăng hiện lên sau dãy núi...nó tượng trưng cho vẻ đẹp của người con gái, của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Không gian thiên nhiên ấy hoàn toàn phù hợp với cảnh ngộ của con người – ngày hội hôn. Đó quả là một không gian tương xứng với cuộc sống của con người trong ngày hội hôn. Một sự kết nối giữa thiên nhiên và con người, tấm phông đẹp ấy làm nổi bật hơn không gian sinh hoạt, nơi hôn lễ được tiến hành.
Không gian sinh hoạt: được hiểu là nơi diễn ra mọi sinh hoạt của con người, không gian ấy luôn gắn bó với cảnh vật và nơi con người sinh sống. Đó là dòng sông con suối đầu làng, hành lang đầu bản, đồng ruộng bậc thang, con đường vào bản, là ngõ nhà người, là ngôi nhà sàn,…
Có thể nói, không gian sinh hoạt trong Thơ lẩu mang đậm dấu ấn của bản làng miền núi, sự hòa quyện giữa cảnh và người đã đem lại cho thế giới Thơ lẩu hơi ấm nhân sinh và màu sắc dân dã, độc đáo. Theo bước chân của Quan làng, không gian hiện thực được mở ra từ xa đến gần, từ rộng đến hẹp
rồi lại mở ra theo bước chân cô dâu về nhà chồng, tạo ra một đường tròn nối kết hạnh phúc lứa đôi. Tuy nhiên, điểm kết tụ của không gian sinh hoạt chính là không gian hẹp nhất cũng là nổi bật nhất đó là không gian gia đình nơi diễn ra tất cả những nghi lễ đám cưới, với những nét riêng về phong tục tập quán, nếp ăn ở, và sinh hoạt văn hoá, văn nghệ…, của đồng bào Tày.
Khách đường xa (khác mường) đã đến bản làng của gia chủ có lễ - được đánh dấu bằng dấu hiệu: “đầu ruộng”, “đầu sông”: Củ tin thâng hua nà cách lặm/ Tốc tin thâng phắng nặm bển slồng (Cất bước đến đầu ruộng cách ngăn/ Đưa chân đến đầu sông bến nước), đến đầu ngõ nhà người: Càm kha khảu pác ảng rườn cần (Bước chân đến trước ngõ nhà người) họ bắt đầu cảm nhận được không khí đông vui nhộn nhịp như có hội đang diễn ra ở đây. Không gian của bản làng trong ngày hội hôn được vẽ lên thật sinh động, mang đậm hơi thở của cuộc sống nơi miền sơn cước.
Mọi người từ mọi nơi về dự tiệc hôn nhân:
Bạn quây thêm bạn xâử mà đo Bằng hựu tả phiệc mà thâng thóa Ỷ như mènh đẩy hội sluôn va) [16]
(Bạn xa gần quá bộ tới đây/ Bằng hữu bỏ công nhà tới dự..thật đông vui/ Như bướm ong được hội vườn hoa)
Một không khí chuẩn bị cỗ cưới hiện ra:
Vằn nảy vằn xỉnh lẩu chồm khua Bản tâử cắp bản nưa mà hội
Phấn mà còn tẳng mỏ có pây Slao báo chùa căn pây háp nặm
Phần dú lườn lo sẳm nặm bôm bàn Pjển đảy pền cúa kin vẻn vẹn
..Mọi đồ mọi hom ngắt vẻ vang [16 ]
(Hôm nay tiệc cưới vui mừng/ Cả bản dưới trên về hội/ Người đến trước nhóm bếp bắc nồi/ Trai gái rủ nhau đi ghánh nước/ Người ở nhà sắp xếp mâm bàn/ Nấu nướng thành món ăn mọi thứ/...Mọi đồ mọi thơm ngát mùi hương.)
Trong không gian bản làng tưng bừng hội hôn ấy là không gian hẹp nhất nhưng nổi lên đậm nét nhất là không gian gia đình – không gian của ngôi nhà sàn người Tày, đó cũng là sân khấu chính của diễn xướng Thơ lẩu. Ngôi nhà sàn được làm rất công phu và thiết kế quy củ, phản ánh phần nào cuộc sống và con người của gia chủ: “Nhất tôi mừng nhà người rộng mở/ Gian nào cũng rộng mở phong quang/ gian một là hương lân buộc ngựa/ Gian hai là khách lạ trọ đêm/ Gian ba là hồng môn mơ mộng/ Gian mười một khăn thêu chỉ bạc/ Gian mười hai bổ quả têm trầu/ Nhà người thật giàu sang sung túc.” [29] Ngày đại lễ, gia chủ lại gỡ các vách ngăn để tạo ra một mặt bằng sàn rộng nhất để tổ chức lễ cưới. Nơi khách ngồi được chuẩn bị chiếu hoa rất đẹp:
Phục phượng cắp phục va pjái lỏt
Pjái khoóp tằng hoỏng noọc hoỏng đâng [29]
(Chiếu phượng thêm chiếu hoa tăm tắp/ Trải gian ngoài đến khắp gian trong)
Tâm điểm của không gian rộng rãi, “phong quang” ấy là gian thờ - nơi tôn nghiêm nhất được gia đình trang hoàng thật đẹp trong ngày đại lễ:
Pàn cần vẹ mản tiên thậm mjạc Sloong bưởng mì phượng hạc uy nghi Khẻo viển nhựng bài sli cặp tói Sloong sảng khoen rỉ rọi nhựng tanh Tối hương chút rằng rặc cừn vằn
Đèn cù khoen sloong ăn ngoại noọc [29]
(Bàn người vẽ cảnh tiên cực đẹp/ Hai bên có phượng hạc uy nghi/ Khéo viết những bài thơ cùng đối/ Hai bên treo vô khối là tranh/ Đôi hương thắp rực cháy ngày đêm/ Đèn cù treo hai bên ngoài cửa..)
Phía trước bàn thờ gia tiên ấy sẽ là không gian chính diễn ra những toàn bộ những nghi lễ, tục lệ cưới xin. Từ Rải chiếu, nộp lễ, Trình tổ, Bái lạy gia tộc, xin dâu, nộp dâu...đến những phần giao lưu mời chè, mời cơm, mời rượu....chia tay, dặn dò dâu, rểv.v... đều được diễn ra ở đây, dưới sự chứng kiến của tiên tổ, của họ tộc, của tất cả mọi người. Đó còn là không gian của những sinh hoạt văn hóa – văn nghệ quần chúng. Bởi khi tiếng Thơ lẩu được cất lên là lúc mà “mọi vật im phăng phắc, tất cả mọi người đều chăm chú say sưa lắng nghe”, sự hứng khởi, hòa nhịp của những thính giả sành nghe sẽ làm thăng hoa những tài năng văn nghệ. Chính không gian đặc thù ấy là nơi nảy sinh, nuôi dưỡng, gìn giữ vốn văn học quý báu của dân tộc.
Nói chung, không gian nghệ thuật của Thơ lẩu Hà Vị là không gian nhỏ hẹp, trong phạm vi gia đình, làng bản, gắn liền với cuộc sống lao động của con người miền núi. Tuy có lúc cái không gian ấy được đồng bào mở rộng ra đến trời xanh, rừng thẳm, cả phía đông tây nam bắc hoặc bằng cách đối lập cái hiện thực với cái phi hiện thực. Nhưng xét cho kỹ thì đó cũng chỉ là không gian quen thuộc, gần gũi, ăn sâu vào tâm thức của họ từ bao đời nay. Qua đó, phần nào chúng ta hiểu thêm về quan niệm thế giới quan, nhân sinh quan, tín ngưỡng, phong tục tập quán, nếp sinh hoạt truyền thống và đời sống tinh thần phong phú, nên thơ của họ.
Theo chúng tôi, không gian nghệ thuật trong Thơ lẩu là sự kết hợp của nhiều tiểu không gian khác nhau: không gian tuyến là con đường đền đón dâu của quan làng. Dù không rõ nét nhưng con đường với những thử thách tượng trưng ấy đã cho thấy rõ hơn ý nghĩa của việc đón được dâu quý về nhà; không gian điểm đóng vai trò chủ đạo, nơi diễn ra tất cả nghi lễ, tục lệ cưới xin. Tuy nhiên, không gian ngôi nhà sàn không chỉ là nơi sinh hoạt cá nhân mà còn là không gian sinh hoạt tập thể, điều này phù hợp với tính chất, ý nghĩa của đám cưới trong cộng đồng người Tày. Trong kiểu không gian điểm của Thơ lẩu,
ngoài không gian ngoại giới (không gian siêu nhiên), cái quan trọng vẫn là không gian nội giới, tức không gian trữ tình của chủ thể vì chính từ không gian này mà người diễn xướng Thơ lẩu, đã phóng chiếu tâm tình của mình ra không gian ngoại giới, bắt cái không gian vật chất kia phải biểu hiện cho được những tư tưởng, tình cảm của mình. Do vậy, những lời ca đi vào lòng người nhất vẫn là những lời có sự thống nhất hai kiểu không gian này.
Tóm lại, không gian nghệ thuật trong Thơ lẩu chủ yếu là không gian trần thế, đời thường, bình dị, mang đậm chất miền núi. Đối lập với nó là không gian siêu nhiên linh thiêng, huyền ảo. Cặp không gian này tưởng như đối lập song lại thống nhất với nhau, nâng đỡ cho nhau để rồi cùng hướng tới làm tôn thêm vẻ đẹp nơi gian trần thế - nơi mà con người đang cảm nhận được niềm hạnh phúc lớn lao trong cuộc đời mỗi con người. Mỗi không gian là một phương diện làm nên chỉnh thể của không gian nghệ thuật trong Thơ lẩu của người Tày nơi đây. Chúng đều là không gian gắn bó với những quan niệm, đời sống sinh hoạt của người dân và phản ánh được những cung bậc tình cảm của con người trong cuộc sống. Không gian nghệ thuật đã góp phần xây dựng nên một thế giới nghệ thuật phong phú, đa dạng trong dân ca nghi lễ đám cưới.
* Tiểu kết:
Qua việc nghiên cứu một số đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu trên, chúng tôi nhận thấy, về cơ bản, Thơ lẩu Hà Vị mang những đặc trưng nghệ thuật chung của thơ ca dân gian cũng như dân ca đám cưới Tày – Nùng. Song vẫn ẩn chứa nét độc đáo, riêng có của người Tày nơi đây- Đó là những địa danh thân thuộc với người Hà Vị.
Phần lớn các bài hát Thơ lẩu đều là thể thơ bảy chữ, bắt vần lưng nhưng nhiều khi để diễn tả những cảm xúc súc tích hơn hoặc phức tạp hơn, các tác giả dân gian đã chuyển sang cả thể bốn chữ, năm chữ, và cả thể tự do. Điều này đã tạo cho lời thơ có thể diễn đạt một cách sinh động và phong phú đời sống tâm tư, tình cảm của đồng bào Tày Hà Vị. Nó khiến cho Thơ lẩu không
bị gò bó bởi tính chất nghi lễ mà thực sự đã là thể dân ca trữ tình. Tìm hiểu ngôn ngữ (Thơ lẩu ta thây có sự đan xen giữa ngôn ngữ các dân tộc Kinh, Hán và sử dụng tự nhiên, sáng tạo các điển tích điển cố Trung Hoa, cùng với lối nói bằng biểu tượng (chim và hoa) đã cho thấy tấm phông văn hóa rộng lớn ẩn dấu dưới lớp vỏ ngôn ngữ, sự giao thoa văn hóa của dân tộc Tày với các dân tộc khác, bộc lộ tài năng, trí tuệ của người Tày. Tính chất trữ tình trở nên rõ nét hơn khi tiến hành nghiên cứu một số biện pháp tu từ (so ánh, ẩn dụ và liệt kê) trong Thơ lẩu. Bằng lối nói giàu hình ảnh so sánh ví von, lời thơ bóng bảy, trong sáng, nhẹ nhàng, người Tày đã gửi gắm một cách kín đáo, tế nhị thế giới nội tâm vốn rất phong phú đa dạng và phức tạp của con người vào những lời thơ trong đám cưới. Đồng thời, Thơ lẩu còn là cách trò chuyện bằng thơ, nên lối nói cặn kẽ, chi tiết đã phô diễn được sự phong phú, đa dạng của sự vật hiện tượng cùng với những thái độ, tình cảm trữ tình của người hát. Tư duy nghệ thuật đó thực sự in đậm tính cách, tâm hồn của người Tày. Thời gian và không gian nghệ thuật trong Thơ lẩu giúp ta có cái nhìn khái quát toàn diện về giá trị dân ca nghi lễ đám cưới của người Tày và có điều kiện đi sâu khám phá, tìm hiểu những màu sắc riêng của Thơ lẩu Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn.