Họ tên | Năm sinh | Giới tính | Dân tộc | Nơi cư trú | Nghề nghiệp | |
13 | Lăng Văn Doanh | 1978 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
14 | Triệu Thúy Doanh | 1977 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Cán bộ dân số xã |
15 | Lý Hữu Dũng | 1983 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Bộ đội |
16 | Triệu Thị Duyến | 1978 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm thuốc nam |
17 | Dương Phú Đạt | 1984 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
18 | Triệu Đức Đoàn | 1963 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
19 | Triệu Sinh Đức | 1955 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
20 | Triệu Phú Đức | 1953 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng, hưu trí |
21 | Đặng Văn Giáp | 1984 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
22 | Đặng Thị Hà | 1989 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì | Bán hàng |
23 | Lăng Văn Hà | 1972 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Bí thư xã |
24 | Triệu Thị Hằng | 1979 | Nữ | Dao | Đài Loan | Công nhân |
25 | Triệu Quang Hòa | 1970 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
26 | Triệu Thị Hòa | 1948 | Nữ | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm thuốc nam |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - 19
- Nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - 20
- Danh Sách Các Thông Tín Viên Cung Cấp Tư Liệu Cho Luận Án
- Hướng Chọn Mộ Ứng Với Tháng Mất Của Người Chết
- Một Số Hình Ảnh Về Nghi Lễ Vòng Đời Người Dao Quần Chẹt Ở Ba Vì
- Nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - 25
Xem toàn bộ 237 trang tài liệu này.
Họ tên | Năm sinh | Giới tính | Dân tộc | Nơi cư trú | Nghề nghiệp | |
27 | Phùng Kim Hùng | 1991 | Nam | Dao | Thôn Suối Thản, Đú Sáng, huyện Kim Bôi, Hòa Bình | Công nhân |
28 | Triệu Tiến Hưng | 1941 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng, đã mất |
29 | Triệu Thị Hương | 1991 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
30 | Lý Hữu Kiên | 1985 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Giáo viên |
31 | Triệu Sinh Lạng | 1952 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng, hưu trí |
32 | Dương Trung Liên | 1963 | Nam | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầ cúng, chủ tịch xã |
33 | Phùng Thị Mai | 1965 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
34 | Triệu Thị Minh | 1957 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì | Làm nông |
35 | Triệu Thị Mùi | 1981 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
36 | Triệu Thị Ninh | 1958 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm thuốc nam |
37 | Triệu Thị Nội | 1940 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm thuốc nam |
38 | Triệu Phú Nhàn | 1961 | Nam | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Trưởng ban văn hóa xã, thầy cúng |
39 | Lý Văn Phủ | 1964 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng, trưởng thôn Yên Sơn |
40 | Triệu Phúc Phương | 1941 | Nam | Dao | Thôn Suối Thản, xã Đú Sáng, huyện Kim Bôi, Hòa | Thầy cúng |
Họ tên | Năm sinh | Giới tính | Dân tộc | Nơi cư trú | Nghề nghiệp | |
Bình | ||||||
41 | Dương Kim Quản | 1944 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng |
42 | Đặng Trung Sáu | 1978 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
43 | Triệu Thị Sửu | 1950 | Nữ | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
44 | Triệu Quang Tài | 1987 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Bán hàng |
45 | Dương Đức Tiến | 1944 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng, đã mất |
46 | Phùng Thị Tiến | 1935 | Nữ | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Ở nhà |
47 | Phùng Văn Tỉnh | 1974 | Nam | Dao | Thôn Suối Thản, Đú Sáng, huyện Kim Bôi, Hòa Bình | Giáo viên |
48 | Triệu Thị Toàn | 1944 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Ở nhà |
49 | Lý Sinh Tuất | 1972 | Nam | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Bác sĩ |
50 | Dương Thị Thắng | 1948 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
51 | Phùng Thị Thắng | 1952 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm thuốc nam |
52 | Phùng Thị Thanh | 1979 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
53 | Triệu Thị Thanh | 1950 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm thuốc nam |
54 | Triệu Đức Thanh | 1965 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, | Thầy cúng, |
Họ tên | Năm sinh | Giới tính | Dân tộc | Nơi cư trú | Nghề nghiệp | |
huyện Ba Vì, Hà Nội | trưởng thôn Hợp Nhất | |||||
55 | Triệu Văn Thanh | 1968 | Nam | Dao | Thôn Suối Thản, xã Đú Sáng, huyện Kim Bôi, Hòa Bình | Làm ruộng |
56 | Dương Trung Thành | 1965 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
57 | Đặng Xuân Thành | 1957 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng |
58 | Triệu Tài Thành | 1937 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng |
59 | Triệu Phú Thành | 1960 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng |
60 | Lý Văn Thắng | 1957 | Nam | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng |
61 | Phùng Thị Thắng | 1952 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm thuốc nam |
62 | Triệu Phú Thắng | 1935 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng |
63 | Dương Trung Thọ | 1969 | Nam | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng |
64 | Lý Văn Thọ | 1959 | Nam | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng, hưu trí |
65 | Đinh Quế Thụ | 1967 | Nam | Mườ ng | Thôn Cốc Đồng Tâm, xã Mình Quang, Ba Vì, Hà Nội | Buôn bán |
66 | Dương Thị Thúy | 1999 | Nữ | Dao | Thôn Yên Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
67 | Lý Hữu Văn | 1992 | Nam | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
Họ tên | Năm sinh | Giới tính | Dân tộc | Nơi cư trú | Nghề nghiệp | |
68 | Lý Thị Vân | 1989 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
69 | Triệu Tài Vi | 1963 | Nam | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Thầy cúng |
70 | Lý Sinh Vượng | 1961 | Nam | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Phó chủ tịch xã |
71 | Đặng Thị Xuân | 1967 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
72 | Lý Thị Xuân | 1983 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Làm nông |
73 | Triệu Thị Xuân | 1978 | Nữ | Dao | Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội | Y sĩ |
PHỤ LỤC 2: CHÚ THÍCH
1. Câu chuyện về sự tích Bàn Vương
Theo đó, Bàn Hồ là con long khuyển mình dài ba thước, lông đen, vằn vàng, mướt như nhung từ trên trời giáng xuống trần được Bình Hoàng yêu quí nuôi trong cung. Một hôm Bình Hoàng nhận được chiếu thư của Cao Vương. Bình Hoàng liền họp bá quan văn vò để bàn mưu tính kế diệt họ Cao, nhưng không ai tìm được kế gì.Trong khi đó thì con long khuyển Bàn Hồ từ trong kim điện nhảy ra sân rồng quì lạy xin đi giết Cao Vương. Trước khi Bàn Hồ ra đi nhà vua có hứa nếu thành công sẽ gả cung nữ cho (có tài liệu ghi là công chúa). Bàn Hồ bơi qua biển 7 ngày 7 đêm mới tới nơi Cao Vương ở. Cao Vương thấy con chó đẹp tới phủ phục trước sân rồng thì cho đó là điểm lành nên đem vào cung nuôi. Nhân một hôm Cao Vương say rượu, Bàn Hồ cắn chết Cao Vương, ngoạm lấy đầu đem về báo công với Bình Hoàng. Bàn Hồ lấy được cung nữ đem vào núi Cối Kê (Chiết Giang) ở. Vợ chồng Bàn Hồ không bao lâu sau sinh được 6 người con trai và 6 người con gái. Bình Hoàng ban sắc cho con cháu Bàn Vương thành 12 họ, riêng người con cả lấy họ cha, còn các con thứ lấy tên làm họ gồm các họ: Bàn, Lan, Mãn, Uyển, Đặng, Trần, Lương, Tống, Phượng, Đối, Lưu, Triệu.
Con cháu Bàn Vương sinh sôi nảy nở mỗi ngày một nhiều. Đến đời Hồng Vũ (1368 - 1398) bị hạn hán 3 năm liền không có gì ăn, nhà vua phải cấp cho con cháu Bàn vương mỗi người một cái búa, một con dao quắm để đốn cây rừng làm bẫy. Con cháu của Bàn Vương phát hết núi của nhà vua như: Kim Sơn, Ngân Sơn, Long Bảo, Hồ Bảo, Ô Nha, Giao Sơn rồi đến các núi hoang ở Quảng Đông, Hồ Quảng, Thiểm Tây, Vân Nam, Quý Châu,..
Con cháu Bàn Vương lại ngày càng nhiều mãi lên, khiến nhà vua phải sắc cấp “Quả sơn bảng” để phân tán đi các nơi kiếm ăn [24, tr.19 -20].
2. Câu chuyện về cuộc vượt biển của người Dao
Người Dao di cư sang Việt Nam bằng đường biển với nhiều lý do như chiến tranh, hạn hán, mất mùa. Sau nhiều tháng lênh đênh trên biển, bất ngờ đoàn thuyền
của các họ Dao gặp bão, bị sóng to gió lớn như muốn nhấn chìm thuyền, tính mạng các họ Dao bị đe doạ. Trong cơn nguy cấp, các họ Dao khấn cầu xin Bàn Vương và tổ tiên giúp đỡ vượt qua cơn hoạn nạn và hứa sẽ làm lễ tạ ơn. Hầu hết các họ Dao hứa làm Tết nhảy. Lời cầu linh ứng, từ đó về sau theo lời hứa, các họ người Dao tổ chức Tết nhảy để tạ ơn tổ tiên nhưng tuỳ lời hứa của từng họ mà chu kỳ tổ chức Tết nhảy của các họ khác nhau, thường từ 10 - 15 năm/lần.
3. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và việc tách nhà tổ của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì
Người Dao ở Ba Vì quan niệm có 2 loại nhà: nhà to/ nhà lớn(tầm peo) và nhà nhỏ/ nhà con (pèo lìu). Nhà to có ban thờ tổ (tìa dạn) của dòng họ. Bàn thờ cấu tạo như cái tủ gỗ, gồm 2 tầng, không cánh. Nó được đặt ở góc trái hoặc phải chỗ vách ngăn giữa gian nhà ngoài và gian trong. Ở nhà nhỏ, ban thờ là một tấm phên tre nứa (peng) đặt ở vị trí giống tìa dạn nhưng treo trên tường để thờ gia tiên. Khi có lễ, các nhà nhỏ tập trung tại nhà lớn - nơi có bàn thờ tổ để làm lễ.
Bên cạnh đó, người Dao Ba Vì có tục tách nhà tổ. Các nhà con được phép lập nhà tổ mới cho gia đình mình theo một qui trình bắt buộc. Đầu tiên là tìm nhà tổ (dựng bàn thờ) -> kêu say -> hào sung (đám nhỏ) -> mua bộ tranh nhỏ (hày say) -> khai quang tranh -> tần dần đàng -> chày pay đàng (đám nhỏ) -> tạ mả cho ông bành tổ lần 1 -> mua tranh -> khai quang tranh (1 ngày 1 đêm) -> tết nhảy (trước kia làm 3 lần trong 3 năm: năm thứ nhất 1 ngày 1 đêm, năm thứ 2 làm 2 ngày 2 đêm, năm thứ 3 làm 3 ngày 3 đêm; nay gộp lại chỉ làm 1 lần trong 3 ngày 3 đêm,) -
>cấp sắc cho con trai -> chông chày (tạ mả lần 2) -> chày pí đàng (đám to) -> tạ mả lần 3 (mổ trâu). Trải qua những bước như vậy nhà tổ mới hoàn thành.
Sau khi bàn thờ tổ được hoàn thành, gia đình có thể tự thực hiện các nghi lễ tại nhà mà không cần sang nhà tổ của dòng họ. Mỗi người con trai trong gia đình khi lấy vợ và ở riêng đều có mong muốn tách nhà tổ để tiện cho việc thờ cúng và thực hiện nghi lễ. Tùy thuộc vào điều kiện mỗi người mà việc này diễn ra nhanh hay chậm. Tuy nhiên, vẫn phải làm theo trình tự anh em trong gia đình (gia đình anh trai tách trước sau đó mới đến gia đình em).
4. Các thầy cúng và trách nhiệm của họ lễ cấp sắc
Để thực hiện lễ cấp sắc, gia chủ mời 7 thầy cúng, mỗi thầy phụ trách một công việc khác nhau. Quan trọng nhất là thầy cả và thầy hai là người chủ trì các nghi lễ. Người cấp sắc sẽ nhận các thầy cúng làm bố thánh sư (sày tỉa), theo học suốt đời. Vì vậy, người thụ lễ sẽ lựa chọn rất kỹ lưỡng về năng lực, phẩm chất đạo đức, nhà tổ của người thầy cúng cũng như việc họ tin tưởng vào ai nhất để làm thầy. Khi mời thầy cả và thầy hai, người thụ lễ mang theo 1 ít muối được gói trong lá dong và một sợi chỉ màu đỏ (đối với thầy cả) và sợi chỉ màu xanh hoặc trắng (đối với thầy hai). Khi các thầy cúng đã nhận gói muối và sợi chỉ đồng nghĩa với việc họ đã nhận lời thực hiện nghi lễ, cho dù gia đình có bất kỳ chuyện gì xảy ra (kể cả người có người thân qua đời), thầy cúng đều phải gác lại và làm công việc mình đã nhận lời, sau đó mới về lo việc cho gia đình. Trừ trường hợp ông thầy cúng đó không còn thì gia chủ người thụ lễ sẽ mời người khác thay thế
Đối với 5 thầy cúng còn lại, người thụ lễ không cần phải mang theo muối và chỉ khi mời. Nếu gia đình các thầy có tang hoặc chuyện không may thì người thụ lễ có thể mời một thầy khác thay thế. Trước khi vào làm lễ, người thụ lễ rót rượu mời các thầy cúng, khi đã nhận chén rượu đồng nghĩa với việc họ nhận lời thực hiện nghi lễ.
Nhiệm vụ của 7 thầy lần lượt được qui định như sau:
Thầy cả (chì chiểu say): đảm nhiệm, thâu tóm toàn bộ công việc chính của buổi lễ
Thầy hai (diền chải say): làm nhiệm vụ cấp sắc cho người thụ lễ Thầy ba (chềnh mềnh say): người làm chứng cho toàn bộ sự việc Thầy tư (pù cấy say): giữ việc đón rước gia thần, địa thánh
Thầy năm (chì dừn say): thầy bếp, phụ trách những công việc liên quan
đến việc chuẩn bị lễ vật trong nghi lễ