đạo của Đảng và các hoạt động lập pháp, hành pháp.
3.1.3. Bảo đảm tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao phải được thực hiện một cách đồng bộ với quá trình cải cách thể chế, cải cách hành chính, hành chính- tư pháp
Việc cải cách thể chế không chỉ là cơ sở để thực hiện đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của TAND cấp cao mà còn là cơ sở pháp lý để Tòa án áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, đảm bảo kịp thời giải quyết, xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội, tranh chấp phát sinh, góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân. Chính vì vậy, việc cải cách, hoàn thiện thể chế là điều kiện cơ bản cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xct xử của Tòa án; nâng cao trình độ Thẩm phán và ý thức chấp hành pháp luật của công dân. Cụ thể hòa quan điểm trên của Đảng các bộ luật, luật về tố tụng và các văn bản pháp luật khác đã có sự sửa đổi bổ sung các qui định liên quan đến thẩm quyền, nguyên tắc, trình tự thủ tục giải quyết các loại vụ việc nhằm đảm bảo tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, mở rộng thẩm quyền của Tòa án, thể hiện tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam. Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 và một số đạo luật về tố tụng tư pháp đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập trong tổ chức và hoạt động cần sớm được sửa đổi để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng tòa án xứng đáng là biểu tượng của công lý, lẽ phải và niềm tin. Trong mối quan giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền hiến định thì việc đổi mới hoạt động của tòa án phải tiến hành cùng với công cuộc cải cách hành chính nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của các cơ quan khác, trong nội bộ của Tòa án công tác hành chính tư pháp nhằm xây dựng tòa án hiện đại, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân.
3.1.4. Bảo đảm tố chức và hoạt dộng của Tòa án nhân dân phải gắn
với yêu cầu hội nhập quốc tế, tiếp thu những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp hoàn cảnh của nước ta, phục vụ cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Hợp tác quốc tế là nhu cầu, xu thế tất yếu trong sự tồn tại và phát triển của tất cả các quốc gia trong thời đại ngày nay. Nhận thức được tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vừng an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, quá trình hội nhập cũng đặt nền kinh tế nước ta trước những thách thức lớn, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vượt qua mới có thể tận dụng tốt cơ hội phát triển. Hội nhập, mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài sẽ làm gia tăng các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động có yếu tố nước ngoài và đi cùng với sự gia tăng này là các tranh chấp phát sinh. Mặt khác hợp tác quốc tế về tư pháp ngày càng được mở rộng. Vì vậy các Tòa án phải có sự đổi mới, thích ứng để giải quyết các tranh chấp phát sinh có yếu tố nước ngoài, đảm bảo tôn trọng pháp luật, các chuẩn mực tư pháp quốc tế và bảo vệ quyền bình đẳng của tất cả các bên liên quan. Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với điều kiện Việt Nam để xây dựng nền tư pháp Việt Nam tương đồng với mức độ phát triển chung của thế giới.
3.1.5. Đảm bảo sự giám sát của các cơ quan dân cử của nhân dân trong tổ chức và hoạt động của các Tòa án nhân dân
Quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng giữ vị trí quan trọng trong cơ chế bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp theo thiết chế đại diện (thông qua cơ quan dân cử, các tổ chức đoàn thể
nhân dân) và trực tiếp. Thông qua hoạt động chất vấn đối với thủ trưởng các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp; Thông qua đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân để giám sát; Sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan có chức năng giám sát, thanh tra, kiểm tra để thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động tư pháp; thông qua hoạt động giám sát của các tổ chức nghề nghiệp (như Hội Luật gia Việt Nam, các đoàn luật sư...) trong lĩnh vực tư pháp; thực hiện phản biện xã hội đối với hoạt động tư pháp; Có cơ chế pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân giám sát các hoạt động tư pháp thông qua việc bảo đảm 8 quyền tư pháp cơ bản: quyền được biết, quyền được trình bày, quyền được bào chữa và tự bào chữa, quyền được tranh tụng, quyền được đưa ra chứng cứ tài liệu, quyền được đề nghị, quyền được kháng cáo và quyền được khiếu nại, tố cáo của người dân khi tiếp cận cơ quan tư pháp.
3.2. Giải pháp bảo đảm tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Hoạt Động Của Tòa Án Nhân Dân Cấp Cao Tại Hà Nội
- Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội - 9
- Quan Điểm Bảo Đảm Tổ Chức Và Hoạt Động Của Tòa Án Nhân Dân Cấp Cao
- Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội - 12
- Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội - 13
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
3.2.1. Giải pháp chung nhằm hoàn thiện về tổ chức và bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án cấp cao: Cấp ủy Đảng cần thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, quán triệt các văn kiện, nghị quyết, đường lối của Đảng với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, cán bộ Tòa án để họ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Thực hiện kiểm tra định kỳ đối với đối với Đảng viên công chức Tòa án, kịp thời phát hiện, xử lý đối với những Đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có sai phạm. Phối hợp chặt chẽ với các cấp ủy Đảng chăm lo công tác cán bộ, kịp thời phát hiện, tuyển chọn những Đảng viên xuất sắc đủ trình độ, năng lực, uy tín, trách nhiệm và bản lĩnh chính trị, khả năng tự chịu trách nhiệm, giải quyết những bức xúc, nổi cộm của ngành vào cấp ủy Đảng và để giữ vị trí chủ chốt.
Nghiên cứu đề nghị cấp có thẩm quyên thành lập Đảng bộ Tòa án nhân dân tối cao (gồm các tổ chức đảng của Tòa án nhân dân tối cao và các tòa án nhân dân cấp cao), trực thuộc Ban Bí thư quản lý. Thành lập đảng bộ tòa án nhân dân cấp tỉnh (gồm tổ chức đảng của tòa án nhân dân tỉnh và tổ chức đảng của các tòa án nhân dân cấp huyện thuộc quyền quản lý), đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh. Việc đổi mới tổ chức đảng của các cơ quan tư pháp như vậy bảo đảm sự lãnh đạo chuyên nghiệp của Đảng đối với hoạt động tư pháp, khắc phục được tình trạng chung chung, không rõ định hướng, nhưng vẫn tôn trọng nguyên tắc độc lập tư pháp.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đi đôi với phát huy trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân theo hướng phân công, xác định cụ thể, rõ ràng thẩm quyền đi đôi với trách nhiệm của người đứng đầu và tập thể lãnh đạo theo nguyên tắc “Trách nhiệm phải đi đôi với thẩm quyền”. Đề cao thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu trên cơ sở thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tư pháp bảo đảm để Toà án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Trong số các quan điểm và chủ trương của Đảng ta về cải cách tư pháp hình sự thì quan điểm và chủ trương đề cao vai trò của Tòa án trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quan điểm mang tính đột phá. Theo đó, về mặt nhận thức cũng như quá trình tổ chức thực tiễn và xây dựng, hoàn thiện pháp luật, phải bảo đảm để Tòa án thực sự đóng vai trò là trung tâm của hệ thống tư pháp và hoạt động xét xử của Tòa án. Như vậy, khâu đầu tiên trong các nỗ lực này là vấn đề nhận thức, trên cơ sở đó mà triển khai các giải pháp tổ chức, hoạt động thực tiễn và hoàn thiện pháp luật. Thực tiễn những năm
qua, kể từ khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW nêu trên cho thấy rằng, mặc dù đã đạt được nhận thức chung về vị trí, vai trò của Tòa án trong hệ thống tư pháp vẫn chưa có những chuyển biến đáng kể trong thực tiễn. Hiến pháp 2013 ra đời Tòa án thực sự đóng vai trò là trung tâm và hoạt động xét xử thực sự là hoạt động trọng tâm. Tòa án thực hiện quyền tư pháp một trong nhánh quyền lực nhà nước, có trách nhiệm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lơi ích hợp pháp. Giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
- Trong hoạt động xét xử của Tòa án phải tuyệt đối trung thành với Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, công bằng xã hội: Tòa án là cơ quan bảo vệ pháp luật nên quan trọng nhất, Tòa án phải là chủ thể tuyệt đối trung thành với Hiến pháp và pháp luật. Đối với mỗi vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của mình, Tòa án cần xem xét một cách khách quan, toàn diện để đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, hợp tình, hợp lý. Với các vụ án hình sự là việc xem xét toàn diện tính chất nguy hiểm đến khách thể mà tội phạm xâm hại, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội khi quyết định một mức hình phạt đủ sức răn đe và cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người công dân có ích cho xã hội. Với các vụ án dân sự là việc xem xét loại quan hệ, mức độ lỗi, giá trị thiệt hại, sự thỏa thuận của các bên, sự tác động của tranh chấp đến các quan hệ xã hội khác. Với các vụ án hành chính là xem xét tính đúng đắn của các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các chủ thể.
Trong hoạt động xét xử của mình, Tòa án phải thật sự tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng xét xử oan, sai trong các loại án, mà đặc biệt là trong án hình sự. Dù với bất kỳ nguyên nhân gì dẫn đến việc xét xử oan, sai thì đều làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền công dân, quyền con người, từng vụ án oan, sai tăng lên sẽ tỷ lệ nghịch với lòng tin
của nhân dân vào vai trò bảo vệ công lý của Tòa án. Chính vì vậy, việc phòng chống oan, sai phải được coi là mục tiêu quan trọng trong cải cách tư pháp nói chung và cải cách tổ chức và hoạt động của Tòa án nói riêng. Bên cạnh đó cần xử lý nghiêm minh các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động tố tụng. Kiên quyết nói không với hiện tượng chạy án, nhận hối lộ trong quá trình giải quyết án.
- Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp. Nghiên cứu làm rõ hơn lý luận về phạm vi quyền tư pháp và cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam theo hướng thống nhất, đồng bộ, phù hợp và có tính khả thi cao. Hệ thống pháp luật vừa phản ánh được thái độ của Nhà nước với các quan hệ đang tồn tại trong xã hội nhưng đồng thời nó cũng phải có tính dự báo trong một thời hạn nhất định đối với những quan hệ xã hội có thể phát sinh, cần sự điều chỉnh bằng pháp luật trong tương lai. Khi đó pháp luật mới đảm bảo được tính ổn định tương đối, tránh tình trạng vừa ban hành đã dự định sửa đổi bồ sung, thiếu tính khả thi. đảm bảo được sự tiếp cận của người dân. Một hệ thống pháp luật ít biến động, đồng bộ, dễ tiếp cận, dễ hiểu là điều kiện tốt nhất để Tòa án thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Có được một hệ thống pháp luật tốt đã khó nhưng để phát huy hiệu quả trên thực tế lại càng khó hơn. Theo PGS-TS. Nguyền Minh Đoan thì: "Nhiều người dân không biết được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên không dám đòi hỏi, không dám đấu tranh"; cũng có khi "người dân biết được các quyền và lợi ích mà mình có nhưng lại không biết làm thế nào để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp đó. Cũng do chưa hiểu biết đầy đủ về pháp luật mà nhiều người dân thờ ơ với pháp luật, không tin tưởng vào khả năng của pháp luật, hoài nghi việc giải quyết các công việc của một số cơ quan, cán bộ Nhà nước”.
Hiện nay nhiều qui định của pháp luật tố tụng liên quan đến hoạt động
xét xử, giải quyết các loại án được qui định nhưng khi áp dụng còn gặp khó khăn, bất cấp do chưa có hướng dẫn cụ thể như quyền không được từ chối giải quyết vì chưa có điều luật áp dụng, việc áp dụng tập quán, lẽ công bằng trong xét xử các vụ án dân sự. Trong tố tụng hình sự cần tiếp tục làm rõ một số nhiệm vụ quyền hạn và cơ chế thực hiện về quyền tự bổ sung, tài liệu, chứng cứ, đánh giá hành vi của cơ quan có thẩm quyền thực hiện tố tụng (THTT), người có thẩm quyền THTT, TAND tối cao đã ban hành án lệ để áp dụng trong hoạt động xét xử để việc giải quyết án được thống nhất và đảm bảo sự công bằng trong quá trình xét xử.
Để thực hiện tốt chức năng là cơ quan thực hiện quyền tư pháp và đảm bảo nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì nghiên cứu lý luận về phạm vi của quyền tư pháp, cơ chế để kiểm soát quyền tư pháp tư đó thể chế hóa thành các quy định của pháp luật cũng là yêu cầu cần đặt ra, đặc biệt là trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đảm bảo bộ máy nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đúng pháp luật nhưng không làm ảnh hưởng tới tính độc lập của TAND. Thực hiện quyền tư pháp không chỉ là thực hiện quyền xét xử mà còn là quyền đánh giá và kết luận về tính hợp pháp và có căn cứ của các quyết định, hành vi tố tụng do các cơ quan tư pháp thực hiện trong tất cả quá trình tố tụng và thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Trước yêu cầu bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi biện pháp ngăn chặn hoặc cưỡng chế của Nhà nước nếu hạn chế quyền con người, quyền công dân thì đều phải được Tòa án xem xét, áp dụng hoặc kiểm tra để thay đổi, hủy bỏ trong trường hợp việc áp dụng các biện pháp đó là trái pháp luật hoặc không cần thiết.
Về cơ chế kiểm soát quyền lực cần được thể chế nhằm: Điều chỉnh lại cơ chế kiểm soát đối với Hoạt động tư pháp trên cơ sở nhận thức lại quyền tư pháp và theo những định hướng mới về tổ chức quyền lực nhà nước theo Hiến
pháp 2013 và cải cách tư pháp; nhận thức lại về hoạt động tư pháp để từ đó tổ chức các cơ quan thực hành quyền tư pháp - tiền đề cơ bản để điều chỉnh lại cơ chế giám sát tư pháp. Đặt Tòa án là trung tâm, độc lập, tự kiểm soát bằng pháp luật và cơ chế tranh tụng, nhiều cấp xét xử, công khai, công lý; Sự kiểm soát của các thiết chế nhà nước khác chỉ tập trung vào giám sát trách nhiệm chính trị chứ không giám sát bản thân hoạt động xét xử, nhất là giám sát giải quyết một vụ án cụ thể và Xác lập sự giám sát của Tòa án đối với các hoạt động quản lý nhà nước
- Đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân đảm bảo hiệu lực, hiệu quả đáp ứng với tình hình hiện nay là yêu cầu, xu thế của chung trên thế giới và kịp thời khắc phục những tồn tại hạn chế đang tồn tại. Việc cần làm hiện này là kiện toàn, tinh gọn bộ máy của TAND tối cao, cấp cao, tỉnh, huyện theo hướng sắp sếp lại bộ máy của TAND tối cao, TAND cấp cao, Tòa án tỉnh. Đối với TAND cấp huyện tiến hành việc sáp nhập các Tòa án gần địa giới hành chính, có số lượng án ít, giao thông thuận lợi nhưng vẫn đảm bảo sự lãnh đạo của đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử. Bên cạnh đó tiếp tục nghiên cứu, thành lập các Tòa chuyên trách, đặc biệt như Tòa sơ hữu trí tuệ, Tòa bảo vệ người tiêu dùng....nhằm chuyên môn hóa hoạt động và phù hợp với thế giới hiện nay. Việc đổi mới bộ máy với yêu cầu là bảo đảm cho TAND hoạt động độc lập, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả; đổi mới hoạt động, phương thức lãnh đạo, cải cách chế độ tiền lương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thu hút và phát huy năng lực người có đức, có tài; bố trí đủ nguồn lực cần thiết và có cơ chế, chính sách phù hợp đối với những người bị ảnh hưởng từ việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy. Bảo đảm khoa học, có cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn. Việc tiến hành đổi mới phải có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, phù hợp với Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Bảo đảm sự thống nhất về