Bài Học Kinh Nghiệm Cho Việt Nam Về Thanh Tra, Giám Sát Trên Cơ Sở Rủi Ro Đối Với Các Tổ Chức Tín Dụng


cấp bang của mình với kỳ thanh tra của cơ quan giám sát tiểu bang và FED cũng có thể thực hiện luân phiên việc thanh tra với các cơ quan giám sát ngân hàng tiểu bang.

Mục tiêu của cuộc kiểm tra/thanh tra chủ yếu để: cung cấp một đánh giá khách quan về tính lành mạnh của ngân hàng; xác định mức độ rủi ro liên quan đến giao dịch và hoạt động của ngân hàng; xác định mức độ tuân thủ của ngân hàng đối với pháp luật và quy định về ngân hàng; đánh giá tính đầy đủ về quản trị doanh nghiệp của ngân hàng, đảm bảo chất lượng của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc; xác định những lĩnh vực cần thực hiện hành động khắc phục để nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng và giúp ngân hàng tuân thủ pháp luật.

FED thường tiến hành kiểm tra hàng năm toàn bộ hoạt động của BHC và các công ty nhận tiền gửi và cho vay với tổng tài sản từ 1 tỷ đô la trở lên, cũng như các ngân hàng hoặc các công ty nhận tiền gửi và cho vay nhỏ hơn có các hoạt động phi ngân hàng đáng kể hoặc hồ sơ rủi ro cao.

Đối với các BHC và các công ty mẹ nhận tiền gửi và cho vay nhỏ, không phức tạp, có tổng tài sản chủ yếu do các công ty con nắm giữ, các kiểm tra viên của FED chủ yếu dựa vào việc giám sát từ xa và kết quả kiểm tra/thanh tra của các ngân hàng con của công ty hoặc các quỹ tiết kiệm bởi chính quyền liên bang hoặc tiểu bang. Cách tiếp cận này giảm thiểu sự chồng chéo trong việc kiểm tra và gánh nặng cho các tổ chức tài chính nhỏ hơn.

(ii) Giám sát an toàn vĩ mô:

Cấp độ này tập trung vào việc thúc đẩy sự ổn định của tổng thể hệ thống tài chính. Theo đó, FED giám sát (1) rủi ro có thể phát sinh do sự liên kết chặt chẽ giữa các định chế tài chính và (2) rủi ro có thể phát triển rộng hơn trong hệ thống tài chính, bao gồm các tổ chức tài chính khác, thị trường tài chính và cơ sở hạ tầng thị trường nói chung.

Trong hoạt động giám sát, FED sử dụng phương thức giám sát chính thức hoặc không chính thức:

- Hoạt động giám sát không chính thức: được sử dụng để giải quyết các thiếu sót hoặc các vấn đề không đáng kể mà FED tin rằng hội đồng quản trị hoặc ban quản lý có thể sửa chữa mà không cần các can thiệp mạnh mẽ.

- Các hoạt động giám sát chính thức: Áp dụng khi việc sử dụng các phương thức giám sát không chính thức là không phù hợp hoặc chưa đủ, trong trường hợp này, FED có thể buộc tổ chức đó phải có những hành động cụ thể (như chấn chỉnh tham gia vào các hoạt động không phù hợp, bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái…) và có thể được thực thi tại tòa án.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 240 trang tài liệu này.


b) Các công cụ, chỉ tiêu sử dụng

Thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng - thực trạng và giải pháp - 10

Một số công cụ cơ bản mà FED đã sử dụng để hỗ trợ cho hoạt động thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, gồm:

(i) Hệ thống xếp hạng CAMEL, BOPEC, SOSA, ROCA

- Từ những năm 1980, các cơ quan giám sát của Mỹ lần đầu tiên đưa ra các đánh giá xếp hạng cho việc thanh tra tại chỗ các tổ chức ngân hàng thông qua việc sử dụng hệ thống đánh giá xếp hạng CAMEL.

Vào năm 1996, để đưa hệ thống đánh giá này hướng tập trung vào rủi ro nhiều hơn, yếu tố thứ 6 – Sensitivity được đưa thêm vào mô hình, tạo thành hệ thống đánh giá CAMELS.

Hệ thống xếp hạng CAMELS thường được đánh giá hàng năm do các tổ chức ngân hàng tại Mỹ nói chung được kiểm tra một lần một năm. Dựa vào mức xếp hạng này, cơ quan thanh tra, giám sát sẽ đưa ra kết luận thanh tra tương ứng.

- Ngoài ra, để thực hiện trách nhiệm giám sát các tập đoàn ngân hàng là công ty mẹ nắm vốn BHC, FED sử dụng hệ thống xếp hạng dựa trên thanh tra tại chỗ BOPEC với 5 thành phần là: Ngân hàng con, Các công ty con khác, Công ty mẹ, Thu nhập và Vốn, cùng với xếp hạng quản lý được tách riêng.

- Đối với hoạt động của các ngân hàng nước ngoài, Mỹ sử dụng xếp hạng về đánh giá khả năng hỗ trợ (SOSA) và đánh giá chất lượng quản lý rủi ro, kiểm soát hoạt động, tuân thủ và chất lượng tài sản (ROCA). Xếp hạng SOSA phản ánh đánh giá của nhân viên FED về khả năng của một ngân hàng nước ngoài trong việc hỗ trợ cho hoạt động tại Hoa Kỳ; Đánh giá ROCA cung cấp đánh giá các hoạt động của chi nhánh tại Hoa Kỳ. FED cũng đánh giá toàn bộ hoạt động của tổ chức ngân hàng nước ngoài tại Mỹ thông qua một xếp hạng chung của nước này.

(ii) Hệ thống phân tích chỉ số tài chính

Phương pháp phân tích tài chính này cho phép cơ quan giám sát phân tích hệ thống hàng quý các dữ liệu các TCTD gửi về theo yêu cầu. Phương pháp phân tích tài chính này bao gồm một loạt các bảng biểu báo cáo các dữ liệu và chỉ số tài chính chọn lọc cho từng tổ chức. Các tổ chức có tỷ lệ nằm ngoài các ngưỡng định trước hoặc có sự biến động đáng kể so với hiệu quả hoạt động trước đây sẽ được xác định là “các ngoại lệ” và sẽ phải chịu đánh giá giám sát bổ sung.

(iii) Mô hình ước lượng xếp hạng SEER

- FED đã phát triển mô hình SEER vào năm 1993. Mô hình này ước lượng xếp hạng thành phần CAMELS trên cơ sở các dữ liệu báo cáo gần nhất. Cụ thể, mô hình


ước lượng khả năng (xác suất) mà xếp hạng thành phần CAMELS của ngân hàng trong kỳ tới sẽ đạt được đối với từng điểm trong 5 thang điểm từ 1 – 5. Xếp hạng SEER là tổng của 5 mức xếp hạng nhân với xác suất tương ứng của từng mức, từ đó dự đoán TCTD nào có rủi ro bị xuống hạng.

(iv) Mô hình dự đoán khả năng thất bại hoặc tồn tại

Biến thể của mô hình SEER của FED được đề cập ở trên là mô hình xếp hạng rủi ro, ước tính xác suất từ 0-100% là một ngân hàng sẽ thất bại trong hai năm tiếp theo. Ước lượng dựa trên tình trạng tài chính của ngân hàng theo số liệu báo cáo gần nhất.

(v) Trong giám sát từ xa liên tục các ngân hàng và công ty mẹ, FED sử dụng các hệ thống tự động để (1) xác định chủ động các tổ chức có hồ sơ tài chính kém hoặc đang xấu đi và (2) giúp phát hiện các xu hướng bất lợi đang phát triển trong ngành ngân hàng.

c) Về nguồn nhân lực

Tương tự Malaysia, Mỹ thiết lập cơ chế cán bộ đầu mối (cán bộ chuyên quản) có vai trò là đầu mối thông tin về một TCTD cụ thể trong công tác thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Mỹ thiết kế các chương trình đào tạo theo học phần đối với cán bộ thanh tra, giám sát.

1.3.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro đối với các tổ chức tín dụng

1.3.4.1. Bài học kinh nghiệm về điều kiện thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro

a) Thiết lập cơ cấu tổ chức cán bộ, các đơn vị giám sát chuyên sâu bổ sung, hỗ trợ nhằm tăng hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro

- Việc thiết lập mô hình cán bộ chuyên quản và thành lập Hội đồng thẩm định để thẩm định kết quả đánh giá về TCTD của cán bộ chuyên quản của Malaysia là một mô hình Việt Nam cần học tập. Việc thiết lập cơ chế cán bộ chuyên quản đem lại một số lợi ích: (i) Có được cán bộ, nhóm cán bộ hiểu về một TCTD một cách toàn diện, chi tiết và liên tục, nhờ đó có đủ thông tin và hiểu biết về TCTD để đưa ra các đánh giá hoặc tham mưu các vấn đề liên quan đến TCTD thuộc trách nhiệm quản lý của cán bộ chuyên trách; (ii) Xác định rõ trách nhiệm của cá nhân, đơn vị đối với một TCTD cụ thể, nhờ đó khắc phục được tình trạng chuyển việc giữa các đơn vị khi xử lý một TCTD; (iii) Hạn chế việc phải xin ý kiến quá nhiều đơn vị, nhờ đó tăng tốc độ xử lý công việc; (iv) Thực hiện nguyên tắc một TCTD chỉ do một nơi xử lý, nhờ đó giảm sự chồng chéo và tinh giản bộ máy; (v) Giảm số đầu mối trong quan hệ với TCTD, nhờ đó góp phần giảm thiểu các thủ tục hành chính và nâng cao chất lượng phục vụ TCTD.

- Tùy tính chất, mức độ giám sát mà các quốc gia thành lập các bộ phận giám


sát chuyên sâu bổ sung, hỗ trợ (như Malaysia thành lập các đơn vị chuyên môn nghiên cứu về rủi ro, các đơn vị phụ trách về mô hình thống kê, thành lập nhóm chuyên gia về Basel; Hàn Quốc thành lập một số Uỷ ban gồm đại diện các cơ quan quản lý; Mỹ thành lập nhóm quản lý khủng hoảng). Việc thành lập các bộ phận này giúp chuyên môn hóa một lĩnh vực, một khâu, đòi hỏi tính chuyên môn cao trong quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro mà không phải mọi thanh tra viên, giám sát viên đều có thể đảm đương được và phải có sự đầu tư nhất định trong việc lựa chọn nhân sự, thời gian, thậm chí tài chính một cách riêng biệt cho những bộ phận này mà không thể đầu tư dàn trải, đại trà.

Khi chuyển sang thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, Việt Nam nên xem xét áp dụng mô hình cán bộ chuyên quản và Hội đồng thẩm định. Những lợi ích từ mô hình này giúp NHNN vừa nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát, vừa thực hiện các mục tiêu của tinh giảm bộ máy và cải cách thủ tục hành chính. Ngoài ra, tùy nhu cầu của thực tiễn, có thể thành lập các bộ phận giám sát chuyên sâu để có thông tin đủ tin cậy hỗ trợ cho hoạt động thanh tra, giám sát.

b) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hỗ trợ hoạt động thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro

Ở tất cả các quốc gia nghiên cứu, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro đều được xây dựng ban hành ở các cấp từ cao đến thấp. Trước hết là Luật thuộc thẩm quyền ban hành của Quốc hội, Nghị viện…, sau đó là các hướng dẫn chi tiết ở các văn bản pháp lý dưới Luật.

Điểm chung ở tất cả các nước là: (i) Luật cung cấp một khuôn khổ pháp lý cho việc điều hành và giám sát; quyền giám sát các TCTD, các biện pháp cưỡng chế khi vi phạm các quy tắc và quy định; (ii) đều có hướng dẫn về hoạt động giám sát; (iii) Các hướng dẫn chi tiết khác, bao gồm cả các văn bản hướng dẫn không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng chịu sự giám sát của cơ quan giám sát…

Một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ là một trong những điều kiện tiên quyết để triển khai thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Vì vậy, NHNN cần chú trọng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để đẩy nhanh quá trình chuyển sang thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro.

c) Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực thanh tra, giám sát

Khi triển khai thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro NHNN cần chú trọng việc đào tạo nguồn nhân lực. Theo đó cần xây dựng chương trình đạo tạo dành cho cán bộ thanh tra, giám sát các TCTD với mục đích đào tạo liên tục (bắt buộc phải tham gia) trên cả phương diện kỹ thuật (hiểu biết về hoạt động ngân hàng, quy định của pháp luật, quy trình thanh tra, giám sát…) và các kỹ năng mềm (kỹ thuật phỏng


vấn, viết báo cáo..); đồng thời, khuyến khích các thanh tra viên có các chứng chỉ về kế toán, kiểm toán, công nghệ thông tin. Chương trình đào tạo này áp dụng các cấp độ khác nhau, từ sơ, trung đến cao cấp; từ đào tạo cho tất cả cán bộ làm thanh tra, giám sát đến các cán bộ quản lý và đội ngũ chuyên gia.

1.3.4.2. Bài học kinh nghiệm trong thực thi thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro

a) Về quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro

Nghiên cứu việc thực thi thanh tra, giám sát tại Hàn Quốc, Malaysia, Mỹ cho thấy cả 03 quốc gia này đều áp dụng phương pháp xếp hạng CAMELS và có bổ sung thêm các chỉ tiêu đánh giá rủi ro ở cấp độ toàn ngành. Về quy trình, cho dù là 6 bước (như Hàn Quốc) hay rút gọn thành 4-5 bước (như Mỹ, Malaysia) thì nội dung của quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro là không thay đổi, với thứ tự bao gồm: (i) thu thập thông tin của tổ chức (xây dựng hồ sơ của tổ chức, đánh giá rủi ro của tổ chức);

(ii) Lên kế hoạch và lộ trình thanh tra, kiểm tra; (iii) Tiến hành thanh tra, kiểm tra; (iv) Thực hiện các biện pháp giám sát (cập nhật hồ sơ của tổ chức, theo dõi việc thực hiện các kết luận và khuyến nghị). Theo đó, giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ là các khâu của một chu trình khép kín, được kết hợp chặt chẽ với nhau: giám sát là “đầu vào” của thanh tra và thanh tra là cơ sở cho chu kỳ giám sát tiếp theo.

Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình áp dụng thanh tra, giám sát tuân thủ kết hợp với thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Việt Nam cũng đang sử dụng hệ thống xếp hạng CAMELS. Vì vậy, để chuyển sang thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, NHNN cần nghiên cứu, bổ sung thêm các tiêu chí đánh giá rủi ro, đồng thời rà soát khuôn khổ pháp lý hiện hành để bổ sung, chỉnh sửa và đảm bảo giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ là các khâu của một quy trình khép kín.

b) Thanh tra, giám sát hợp nhất là cần thiết để thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, đặc biệt đối với các hoạt động của các tập đoàn tài chính và các tổ chức có ảnh hưởng quan trọng đến hệ thống các tổ chức tín dụng

Cấu trúc của một TCTD bao gồm trụ sở chính và các đơn vị trực thuộc (các công ty con, chi nhánh…); của một tập đoàn tài chính bao gồm TCTD và các đơn vị thành viên trong tập đoàn, các đơn vị trực thuộc các đơn vị thành viên trong tập đoàn. Để đánh giá rủi ro của toàn bộ TCTD hoặc tập đoàn, việc thanh tra, giám sát hợp nhất là cần thiết để xác định được rủi ro của từng bộ phận cấu thành và các rủi ro phát sinh từ mối liên hệ ràng buộc với các bộ phận cấu thành liên quan đến TCTD hoặc tập đoàn. Giám sát hợp nhất cũng là một nguyên tắc cơ bản của Basel.

Hiện nay, các tập đoàn tài chính của Việt Nam chủ yếu theo mô hình NHTM là công ty mẹ (07/8 tập đoàn). Vì vậy, NHNN cần tăng cường thanh tra, giám sát hợp nhất để đánh giá được đầy đủ các rủi ro liên quan đến ngân hàng mẹ, đảm bảo


phù hợp với thông lệ quốc tế.

c) Phân loại các tổ chức tín dụng và hoạt động của các tổ chức tín dụng theo mức độ rủi ro

Đặc trưng của thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro là nhận diện, đo lường rủi ro và phân bổ nguồn lực hợp lý. Các quốc gia nghiên cứu đều phân loại các TCTD hoặc phân loại hoạt động của các TCTD để có kế hoạch phân bổ nguồn lực thanh tra, giám sát, xác định tần suất hoặc phạm vi thanh tra/kiểm tra, mô hình giám sát được áp dụng. Nói cách khác, cơ quan quản lý có ứng xử khác nhau đối với TCTD khác nhau. Ở Việt Nam, để hỗ trợ cho thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, NHNN cần phân loại TCTD, xác định các TCTD có tầm ảnh hưởng lớn đến hệ thống để sắp xếp lại cơ cấu, tổ chức bộ máy theo hướng phân cấp, phân quyền phù hợp. Đồng thời, phân loại các TCTD

theo mức độ rủi ro để áp dụng mức độ thanh tra, giám sát phù hợp với từng loại hình.

d) Đa dạng các kênh thông tin, dữ liệu để phục vụ cho hoạt động thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro

Thông tin dữ liệu là cơ sở nền tảng để tiến hành thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Cơ quan thanh tra, giám sát phải duy trì đa dạng các kênh thông tin khác nhau để đảm bảo có nguồn thông tin đầy đủ, chính xác và cập nhật. Bên cạnh nguồn thông tin dữ liệu qua chế độ báo cáo của TCTD, các cơ quan thanh tra, giám sát đều quan tâm đến các kênh thông tin sau:

(1) Duy trì mối quan hệ hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan giám sát

- Các quốc gia nghiên cứu đều rất chú trọng việc hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan trong hệ thống giám sát tài chính, kể cả những quốc gia áp dụng mô hình giám sát hợp nhất (một đầu mối giám sát toàn bộ hệ thống tài chính) như Hàn Quốc.

- Hoạt động này đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia áp dụng mô hình giám sát thể chế như Việt Nam nhằm khắc phục những bất cập của mô hình này.

Hình thức áp dụng phổ biến là ký kết các thỏa thuận hợp tác phối hợp, chia sẻ thông tin (MOU), thành lập các Ủy ban/Hội đồng theo cơ chế cử đại diện của các cơ quan trong hệ thống giám sát tài chính, cũng có thể là tổ chức các buổi làm việc, hội họp hoặc thiết lập các đoàn giám sát chung với các cơ quan quản lý khác.

(2) Thường xuyên trao đổi, đối thoại giữa cơ quan giám sát với TCTD

Mức độ quan trọng của một hệ thống được đánh giá ở mức độ khác nhau, tùy thuộc vào người đánh giá là cơ quan quản lý hay TCTD. Cơ quan quản lý thường quan tâm đến những hành động ảnh hưởng đến an toàn hệ thống, còn TCTD quan tâm nhiều đến những hành động tạo ra lợi nhuận. Điều này dẫn đến nhu cầu đối thoại, trao đổi thường xuyên giữa hai bên, từ đó cơ quan quản lý nắm rõ hơn về tình hình hoạt động, kiểm soát, quản trị, định hướng của TCTD, còn TCTD hiểu rõ hơn


kỳ vọng và các yêu cầu cụ thể từ phía cơ quan quản lý.

Theo đó, Cơ quan thanh tra, giám sát cần duy trì thường xuyên việc trao đổi, đối thoại với các TCTD, tần suất tiếp xúc tùy thuộc vào mức độ rủi ro trong hoạt động của TCTD. Các tổ chức tài chính có quy mô lớn và các tổ chức có xếp hạng CAMELS ở mức xấu có thể mức độ tiếp xúc nhiều hơn các TCTD được đánh giá là hoạt động bình thường.

(3) Tăng cường tổ chức các cuộc họp với kiểm toán độc lập của TCTD để thảo luận về các vấn đề như: các kết luận/khuyến nghị phát sinh từ phía kiểm toán, phạm vi của kiểm toán độc lập và việc giải quyết các nội dung trong báo cáo tài chính bên cạnh một số vấn đề khác.

đ) Đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các hiệp ước vốn Basel làm tiền đề, hỗ trợ chặt chẽ cho triển khai phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro

29 nguyên tắc cơ bản về thanh tra, giám sát các TCTD hiệu quả của Ủy ban Basel đang là những chuẩn mực tốt nhất cho các cơ quan giám sát ngân hàng.

Ủy ban Basel đã đưa ra các yêu cầu cơ bản đối với hoạt động thanh tra, giám sát các TCTD như yêu cầu về thể chế, khuôn khổ pháp lý, yêu cầu thanh tra, giám sát theo định hướng rủi ro – là nền tảng của phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Các quốc gia thực hiện thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro đều đồng thời triển khai các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, NHNN đã xây dựng lộ trình triển khai Basel II và hiện đang giám sát việc thực hiện. Học tập kinh nghiệm này, để thuận lợi cho việc triển khai thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro trong toàn hệ thống, NHNN cần quan tâm, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ triển khai Basel II đối với những TCTD chưa thực hiện.

e) Đẩy mạnh việc áp dụng các công cụ định lượng phục vụ cho hoạt động thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro

Trước sự phát triển năng động của hệ thống tài chính ngân hàng và trong bối cảnh toàn cầu hóa, để nâng cao hiệu quả giám sát, hệ thống giám sát của các quốc gia trên thế giới đã liên tục phát triển, hoàn thiện và đưa ra các mô hình giám sát khác nhau hướng tới việc giám sát hiệu quả trên cơ sở rủi ro.

Theo đó, NHNN cần không ngừng hoàn thiện việc ứng dụng các công cụ định lượng để hỗ trợ cho hoạt động thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, nâng cao hiệu quả cảnh báo sớm và phòng ngừa rủi ro bất ổn cho từng TCTD nói riêng và toàn hệ thống nói chung.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Toàn bộ nội dung Chương 1 của Luận án đã hệ thống hóa và phát triển những lý luận cơ bản về thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của NHTW đối với các TCTD, bao gồm: khái niệm và đặc trưng của TCTD; các khái niệm liên quan đến thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro; sự cần thiết của thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro đối với các TCTD; các điều kiện căn bản để triển khai thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro đối với các TCTD; nội dung, phương pháp, quy trình, công cụ thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của NHTW đối với TCTD. Ngoài ra, nhằm có thêm những lập luận xác đáng cho các kiến nghị, Chương 1 đã nghiên cứu kinh nghiệm về thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro đối với các TCTD của 03 quốc gia (Hàn Quốc, Malaysia, Mỹ) về cơ cấu tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan chịu trách nhiệm thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng; khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh tra, giám sát các TCTD; thực trạng triển khai và áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của NHNN Việt Nam đối với các TCTD.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/12/2022