Khuôn Khổ Pháp Lý Cho Hoạt Động Thanh Tra, Giám Sát Các Tổ Chức Tín Dụng


Đến đầu năm 1999, FSS ra đời (01/01/1999) trên cơ sở hợp nhất các chức năng giám sát tại 4 Cơ quan nói trên. Bộ tài chính ở giai đoạn này, gần như không chịu trách nhiệm giám sát tài chính mà chỉ đóng vai trò phối kết hợp với FSC trong hoạch định chính sách điều tiết.

(2) Giai đoạn sau khủng hoảng đến nay

Ngày 28/2/2008, FSC hợp nhất với Vụ chính sách tài chính của Bộ Tài chính và chiến lược (MOSF - trước đó chính là MOFE) trở thành Ủy ban dịch vụ tài chính (Financial Services commission - FSC). Hệ thống giám sát tài chính hoạt động theo mô hình một tổ chức hợp nhất hoàn toàn. Theo đó, nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống tài chính ở Hàn Quốc như sau:

- Ủy ban dịch vụ tài chính (FSC): phụ trách các chính sách tài chính và giám sát ngành tài chính. Nhiệm vụ bao gồm: (i) Chính sách và hệ thống liên quan tới tài chính bao gồm đề xuất luật và nghị định Tổng thống; (ii) Giám sát và thực thi đối với các tổ chức tài chính; (iii) Cấp phép và ủy quyền khác, bao gồm sáp nhập, chuyển đổi và mua lại; (iv) Ban hành cơ chế chính sách; (v) Đàm phán song phương và đa phương và hợp tác quốc tế liên quan đến giám sát ngân hàng.

- Cơ quan dịch vụ giám sát tài chính (FSS): điều hành thị trường và các tổ chức tài chính dưới sự chỉ đạo và giám sát của FSC. Nhiệm vụ của FSS bao gồm: (i) Kiểm tra các hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của các ngân hàng; (ii) Xử phạt; (iii) Hỗ trợ FSC và các tổ chức liên kết với FSC (SFC và KOFIU).

- Ủy ban Chứng khoán và hợp đồng tương lai (SFC): SFC thực hiện chức năng giám sát thị trường chứng khoán và tương lai trong khuôn khổ chính sách của FSC.

- Công ty Bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc (KDIC): chịu trách nhiệm về an toàn và quyền lợi cho người gửi tiền.

- NHTW Hàn Quốc (BOK): độc lập trong xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ, chức năng giám sát ngân hàng đã được chuyển sang FSC.

Tuy nhiên, do mục đích dài hạn của BOK trong việc duy trì hệ thống ngân hàng an toàn và lành mạnh, FSS duy trì mối quan hệ hợp tác và phối hợp chặt chẽ với BOK. Theo đó, khi thấy cần thiết, BOK có quyền yêu cầu FSS tiến hành thanh tra một tổ chức tài chính cụ thể hoặc tiến hành thanh tra chung với sự tham gia của các chuyên gia của BOK. BOK cũng có thể yêu cầu FSS chia sẻ kết quả thanh tra theo yêu cầu của mình và có hành động giám sát thích hợp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 240 trang tài liệu này.

c) Quan hệ giữa các cơ quan/bộ phận giám sát:

Đầu não của hệ thống giám sát tài chính và chịu trách nhiệm trước chính phủ về sự vận hành và ổn định hệ thống của hệ thống tài chính là FSC.

Thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng - thực trạng và giải pháp - 8


Cơ quan thực hiện giám sát trực tiếp các trung gian tài chính là FSS. FSS triển khai các hoạt động giám sát thông qua các vụ chức năng, đảm nhiệm giám sát riêng biệt về ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.

Hệ thống giám sát đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ giữa các tổ chức có liên quan như NHTW Hàn Quốc (BOK), Bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc (KDIC) và các tổ chức khác có thể tham gia vào quá trình giám sát và nắm được thông tin đầy đủ về hệ thống; việc phối hợp giữa các cơ quan này được thể hiện thông qua các biên bản ghi nhớ (MOU).

Ngoài ra, Hàn Quốc thành lập một số ủy ban gồm đại diện các cơ quan quản lý nhằm đẩy mạnh việc hợp tác và chia sẻ thông tin như: Ủy ban kinh tế vĩ mô và tài chính gồm Phó Thống đốc của FSC, FSS, BOK và KDIC thường gặp để thảo luận về các xu hướng và rủi ro trong nền kinh tế, thị trường tài chính, ngoại hối; Hội đồng kinh tế và tài chính gồm người đứng đầu của các cơ quan tài chính nhằm tăng cường phối hợp và đưa ra các quyết định về chính sách vĩ mô; Hội nghị điều kiện tài chính được tổ chức hàng tháng giữa FSC và FSS để xem xét và thảo luận về các chương trình tài chính.

1.3.1.2. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng

Quá trình hợp nhất chính là quá trình thống nhất và xây dựng bộ luật đầy đủ cho tất cả các đối tượng giám sát. Theo đó, hệ thống Luật giám sát tại Hàn Quốc gồm các văn bản sau (FSS, 2016):

- Các luật cải cách tài chính.

- Các luật giám sát ngân hàng.

- Các luật giám sát các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

- Các luật giám sát các tổ chức đầu tư tài chính.

- Luật Giám sát bảo hiểm.

- Các luật và quy định liên quan khác.

Trong đó, hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tại Hàn Quốc được điều chỉnh bởi:

(i) Luật Ngân hàng và Nghị định thi hành Luật Ngân hàng quy định rõ thẩm quyền và nhiệm vụ của FSC và FSS.

(ii) Quy định về giám sát hoạt động ngân hàng và quy định chi tiết về giám sát hoạt động ngân hàng.

(iv) Một số quy định được bổ sung bằng các hướng dẫn của Liên đoàn các Ngân hàng Hàn Quốc, như Hướng dẫn về cơ cấu quản trị cho các Công ty Tài chính hoặc Tiêu chí soạn thảo báo cáo quản trị công ty thường niên (do Liên đoàn


các Ngân hàng Hàn Quốc phát hành). Các quy định bổ sung này không phải là văn bản quy phạm pháp luật tuy nhiên, việc tuân thủ của các ngân hàng đối với các quy định này sẽ được giám sát bởi FSS.

1.3.1.3. Thực trạng triển khai phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro

a) Nội dung và quy trình thực hiện:

Quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro tại Hàn Quốc gồm 6 bước. Chi tiết nội dung thực hiện ở từng bước như sau:

Bước 1: Xây dựng hồ sơ tổ chức (đối tượng giám sát)

Hồ sơ này gồm hai phần chính:

(i) Tổng quan về đối tượng giám sát: Bao gồm các thông tin cơ bản về tình trạng hiện tại của tổ chức, nhấn mạnh những vấn đề liên quan đến giám sát cần quan tâm và các kết luận giám sát trước đây.

(ii) Tóm tắt đánh giá rủi ro của đối tượng giám sát: Mô tả rủi ro của tổ chức thông qua việc xây dựng ma trận rủi ro và giải trình chi tiết.

Bước 2: Lên kế hoạch và lộ trình cho các hoạt động giám sát

Kế hoạch giám sát thể hiện mối quan hệ giữa việc đánh giá rủi ro của một tổ chức với các hoạt động giám sát sẽ được tiến hành trong kỳ. Tùy thuộc mức độ đánh giá rủi ro tổng thể của tổ chức ở Bước 1, Kế hoạch giám sát có thể bao gồm:

(i) Thanh tra tại chỗ: được tiến hành định kỳ. Tần suất thanh tra phụ thuộc vào đánh giá rủi ro của tổ chức. Việc thanh tra/kiểm tra có thể được tiến hành toàn diện hoặc theo mục tiêu, tập trung vào một sản phẩm cụ thể hoặc một lĩnh vực hoạt động/rủi ro cụ thể.

(ii) Giám sát từ xa: Phân tích và thống kê định kỳ các kết quả hoạt động kinh doanh và lợi nhuận của tổ chức trên cơ sở đánh giá toàn diện về hiệu suất, tình hình tài chính, việc tuân thủ các quy định, chuẩn mực an toàn...; đưa ra các khuyến nghị cho tổ chức. Hoạt động này bao gồm cả các chương trình giám sát và các bài kiểm tra sức chịu đựng.

(iii) Các cuộc họp định kỳ với Bộ phận/Ban quản lý cấp cao của tổ chức.

(iv) Các cuộc họp với kiểm toán viên độc lập của tổ chức.

Bước 3: Xác định các hoạt động thanh tra/kiểm tra

Còn được gọi là Kế hoạch tiền thanh tra. Việc xây dựng Kế hoạch tiền thanh tra, trong đó xác định các hoạt động sẽ kiểm tra/thanh tra giúp thanh tra viên hiểu rõ hơn về tổ chức và xác định quy mô, phạm vi thanh tra một cách hiệu quả. Sau khi xác định được các nội dung này, NHTW sẽ thông báo đến tổ chức 1 tháng trước khi bắt đầu thanh tra chính thức để tổ chức chuẩn bị tốt các thông tin được yêu cầu cung cấp.


Bước 4: Thanh tra tại chỗ

Hoạt động thanh tra tại chỗ được tiến hành nhằm bao quát hết các lĩnh vực rủi ro chính của tổ chức bị thanh tra và được thiết kế trong giai đoạn xây dựng Kế hoạch tiền thanh tra. Khi thanh tra viên phát hiện ra những rủi ro khác nghiêm trọng hơn, phạm vi thanh tra sẽ được mở rộng để đưa ra được những kết luận chi tiết về rủi ro này.

Bước 5: Báo cáo và cập nhật thông tin của tổ chức

Sau khi thanh tra tại chỗ một tổ chức, báo cáo thanh tra được BOK gửi tới Hội đồng quản trị của tổ chức đó để thông báo về các kết luận thanh tra. Báo cáo nêu rõ cơ sở của các kết luận (nghĩa là quy định pháp luật hoặc quy tắc mà tổ chức đó vi phạm), phát hiện của thanh tra viên và đưa ra các khuyến nghị cụ thể về những khắc phục mà tổ chức cần thực hiện.

Bước 6: Theo dõi việc xử lý kiến nghị sau thanh tra

Việc theo dõi thực hiện các kết luận thanh tra được thực hiện thông qua việc đánh giá tình hình tài chính của tổ chức.

BOK theo dõi diễn biến và nhận diện những rủi ro có thể phát sinh trong giai đoạn thực hiện kết luận thanh tra dưới các điều kiện khắc nghiệt và tác động của việc tăng/giảm các tình huống nhất định đối với mức độ đủ vốn của các tổ chức (so sánh các chỉ số tài chính cơ bản của tổ chức với các chỉ số tương ứng tại các bài kiểm tra sức chịu đựng); hoặc xem xét xu hướng thay đổi qua các thời kỳ của đối tượng giám sát thông qua bộ chỉ số giám sát.

BOK cũng áp dụng hệ thống các hành động sửa chữa kịp thời (Prompt corrective actions – PCA) đối với các ngân hàng có vấn đề từ tháng 4/1998. Theo đó, khi hệ số an toàn vốn của một ngân hàng ở dưới mức tối thiểu, BOK sẽ đưa ra các hành động can thiệp kịp thời để điều chỉnh vấn đề. Cụ thể: (i) Gửi khuyến nghị cải thiện tình hình quản trị tới tổ chức khi CAR dưới 8% hoặc xếp hạng CAMELS từ mức 3 trở lên; (ii) Gửi yêu cầu cải thiện tình hình quản trị tới tổ chức khi CAR dưới 6% hoặc xếp hạng CAMELS ở mức 4, 5; (iii) Gửi lệnh buộc phải cải thiện tình hình quản trị tới tổ chức khi CAR dưới 2% hoặc rút giấy phép hoạt động của tổ chức.

Ngoài ra, Hàn Quốc thực hiện phân loại tổ chức tài chính và hoạt động của tổ chức tài chính để xác định mô hình đánh giá nào được sử dụng và đâu là các hoạt động kinh doanh chính để tập trung đánh giá rủi ro (FSS, 2016).

Căn cứ vào mức độ rủi ro, các hoạt động kinh doanh đồng thời được chia thành ba loại: Hoạt động kinh doanh đòi hỏi FSC/FSS phê chuẩn/phê duyệt hoặc đăng ký; Hoạt động kinh doanh không hạn chế đối với các ngân hàng, theo các quy


chế và quy định hiện hành; và Hoạt động kinh doanh loại ít hoặc không có rủi ro đến tính an toàn và tính lành mạnh của ngân hàng.

Hàn Quốc cũng thực hiện đánh giá hoạt động kinh doanh, tình trạng của tổ chức tài chính và đưa ra xếp hạng phân loại tổng thể các tổ chức tài chính.

b) Các công cụ, chỉ tiêu sử dụng:

(i) Bộ chỉ số giám sát

Căn cứ nguyên tắc so sánh và xem xét xu hướng thay đổi qua các thời kỳ của đối tượng giám sát với nhóm đồng hạng, BOK sử dụng một số các chỉ tiêu, chỉ số chủ chốt (như: tỷ lệ an toàn đối với vốn, tài sản, tỷ lệ thanh khoản (LCR); các yêu cầu về ngoại hối,…) để đưa ra đánh giá, nhận xét đối với các nội dung về vốn, chất lượng tín dụng, khả năng sinh lời, thanh khoản, độ nhạy cảm với rủi ro thị trường nhằm có góc nhìn tổng quan về tình hình hoạt động của tổ chức.

(ii) Sử dụng các mô hình phục vụ giám sát trên cơ sở rủi ro: CAMELS, CAMEL-R, ROCA, CACREL, CAEL:

- Đối với ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài:

+ Để đánh giá và xếp hạng các NHTM trong nước (hội sở chính) và hoạt động của chúng ở nước ngoài (công ty con), từ Quý IV/2012, FSS đã thay thế CAMELS bởi CAMEL-R (R = Risk management (quản trị rủi ro)) nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản trị rủi ro tại các TCTD.

+ Để đánh giá và xếp hạng các hoạt động ở nước ngoài của ngân hàng trong nước (chi nhánh ngân hàng trong nước tại nước ngoài) và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Hàn Quốc: Sử dụng mô hình ROCA, gồm 4 cấu phần: Quản lý rủi ro, Kiểm soát Hoạt động, Tuân thủ và Chất lượng tài sản.

- Đối với các ngân hàng đặc thù: Đánh giá xếp hạng theo mô hình CACREL, gồm: mức độ đầy đủ về vốn, chất lượng tài sản, sự tuân thủ, quản lý rủi ro, thu nhập và tỷ lệ thanh khoản.

- Đối với công ty tài chính: đánh giá dựa trên CAEL, gồm 4 cấu phần: mức độ đầy đủ về vốn, chất lượng tài sản, thu nhập và tỷ lệ thanh khoản.

(iii) Ngoài ra, FSS còn sử dụng các hệ thống hỗ trợ để phục vụ cho việc áp dụng Basel II:

- Hệ thống đánh giá rủi ro: là một khung đánh giá đặc biệt bổ sung thêm cho CAMEL.

- Hệ thống xếp hạng phân tích năng động và đánh giá rủi ro: trong đó đánh giá định lượng các rủi ro cố hữu; đánh giá định tính việc quản lý rủi ro tại các TCTD và tập trung đánh giá 14 hoạt động kinh doanh.


1.3.2. Kinh nghiệm thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng tại Malaysia

1.3.2.1. Cơ cấu tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan chịu trách nhiệm thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng

a) Tổng quan về hệ thống tài chính tại Malaysia

Khu vực ngân hàng Malaysia chiếm tới 70% tổng tài sản của cả hệ thống tài chính. Cuối năm 2000, hệ thống này bao gồm 31 NHTM, trong đó 14 ngân hàng hoàn toàn thuộc sở hữu nước ngoài, 19 công ty tài chính, 12 ngân hàng đầu tư và 7 trung tâm chiết khấu. Các định chế ngân hàng nội địa (không kể các trung tâm chiết khấu) kiểm soát 75% thị phần ngân hàng xét về tổng tài sản và tổng tiền gửi. Cho dù sự áp đảo của các định chế nội địa, 14 ngân hàng nước ngoài vượt trội các ngân hàng nội địa về thu nhập trên tài sản, hiệu quả hoạt động và sản phẩm công nghệ tiên tiến trên thị trường. Để có được một khu vực ngân hàng nội địa vững mạnh và hiệu quả, NHTW Malaysia (BNM) đã xây dựng Kế hoạch tổng thể phát triển khu vực tài chính giai đoạn 2001-2010.

Giai đoạn thứ nhất, kéo dài trong 3 năm đầu, đặt trọng tâm vào các yếu tố: tăng cường năng lực cho các định chế tài chính nội địa và củng cố cơ sở hạ tầng cho hoạt động của khu vực tài chính. Ở giai đoạn này, Malaysia đặc biệt coi trọng yếu tố ổn định tài chính trong quá trình phát triển ngân hàng, và nhấn mạnh việc thực hiện mục tiêu ổn định tài chính phải trên cơ sở củng cố vai trò của thanh tra giám sát, theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, trong đó có việc chuyển sang thực hiện thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro.

Giai đoạn thứ hai, trong 3-4 năm tiếp theo, nhấn mạnh tới việc tạo lập áp lực cạnh tranh mạnh mẽ và năng động trong khu vực tài chính nội địa với sân chơi bình đẳng. Giai đoạn thứ ba, thực hiện trong 3 năm cuối, hướng tới sự hội nhập toàn cầu.

Cho đến nay, theo đánh giá của BNM, hơn 90% các khuyến nghị nêu ra đều đã được thực hiện thành công. Từ một hệ thống tài chính bị tổn thương sau cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997-1998, Malaysia đã tạo lập được một hệ thống tài chính đa dạng, hiệu quả, vững mạnh, ổn định, hoạt động năng động trên thị trường tài chính khu vực và thế giới với tiềm lực cạnh tranh mạnh mẽ, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế đất nước.

b) Tổng quan về hệ thống giám sát tài chính và quan hệ giữa các cơ quan/bộ phận giám sát

Malaysia áp dụng mô hình giám sát thể chế, tương tự như Việt Nam. Tuy


nhiên, điểm đặc biệt là ở Malaysia, cùng với NHTW, Bộ Tài chính giữ vai trò quan trọng trong việc giám sát hoạt động ngân hàng và ngân hàng hồi giáo thông qua việc cấp phép hoạt động của các tổ chức này. Cơ quan này cũng có quyền thu hồi giấy phép hoạt động và yêu cầu điều tra trực tiếp trong các hoàn cảnh cụ thể.

(1) BNM chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ hoạt động của các tổ chức ngân hàng được cấp phép theo Luật Dịch vụ tài chính và Luật Dịch vụ tài chính hồi giáo, ngoài ra còn giám sát thị trường ngoại hối. Để thực hiện chức năng giám sát của mình, BNM áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro.

Từ năm 2006, BNM chuyển đổi từ phương pháp thanh tra, giám sát kết hợp CAMELS và thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro sang hoàn toàn áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Để thực hiện việc chuyển đổi này, BNM đã có sự điều chỉnh về cơ cấu tổ chức bộ máy.

Một số điểm chính trong thay đổi cơ cấu tổ chức của BNM sau thời điểm 2006 bao gồm:

(i) Cơ cấu tổ chức tổng thể có sự phân tách giữa hoạt động thanh tra, giám sát từng tổ chức tài chính với các công việc liên quan tới toàn hệ thống tài chính.

Trước và sau chuyển đổi cơ cấu tổ chức, các đơn vị thực hiện nghiệp vụ thanh tra, giám sát vẫn được tập hợp vào một khối do Trợ lý Thống đốc quản lý trực tiếp và 01 Phó Thống đốc chỉ đạo. Các đơn vị thực hiện các công việc có tính chất hệ thống (ví dụ như xây dựng chính sách an toàn, giám sát an toàn hệ thống) được tổ chức vào các khối khác, do Phó thống đốc, các Trợ lý Thống đốc khác chỉ đạo và quản lý. Như vậy, mô hình tổ chức của BNM luôn tách bạch giữa các bộ phận giám sát từng tổ chức tài chính và các bộ phận xử lý các vấn đề của toàn hệ thống.

(ii) Sáp nhập bộ phận thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa

Theo mô hình tổ chức trước đây, trong mỗi Vụ Thanh tra, giám sát ngân hàng, có 01 Phòng chức năng thực hiện giám sát từ xa và 01 Phòng chức năng thực hiện thanh tra tại chỗ.

Trên thực tế, việc phân tách này có những hạn chế cơ bản là các cán bộ của bộ phận thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa hạn chế phối hợp và cung cấp thông tin cho nhau, bộ phận thanh tra tại chỗ còn tự thực hiện phân tích ngân hàng, không dựa vào báo cáo của bộ phận giám sát từ xa; việc đánh giá ngân hàng không thống nhất giữa hai bộ phận. Trong khi đó, phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sơ rủi ro yêu cầu cán bộ thanh tra, giám sát phải hiểu ngân hàng toàn diện, nhất quán, thường xuyên và liên tục. Do vậy, BNM đã lựa chọn phương án sáp nhập các bộ phận thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa. Theo cách thức tổ chức mới này, mỗi cán bộ đồng thời


thực hiện hoạt động giám sát và hoạt động thanh tra.

Việc hợp nhất thanh tra và giám sát cũng có hạn chế nhất định, đó là việc một cán bộ đồng thời thực hiện thanh tra và giám sát có thể dẫn tới quá tải công việc. Tuy nhiên, so sánh với những lợi ích mà việc hợp nhất thanh tra và giám sát mang lại, BNM vẫn quyết định lựa chọn mô hình hợp nhất và cán bộ chuyên quản có trách nhiệm tổ chức công việc khoa học để tránh quá tải.

(iii) Thiết lập cơ cấu tổ chức cán bộ chuyên quản

BNM tổ chức hoạt động thanh tra, giám sát theo mô hình cán bộ chuyên quản. Theo đó, trong mỗi Vụ Thanh tra, giám sát sẽ có một số cán bộ c huyên quản và hỗ trợ cho mỗi cán bộ chuyên quản là một số chuyên viên/thanh tra viên tùy theo quy mô của tổ chức họ phụ trách. Cán bộ chuyên quản sẽ có thông tin tổng thể về tổ chức tài chính, trên phương diện của cán bộ thanh tra và cán bộ giám sát. Cán bộ chuyên quản có nhiệm vụ phân công công việc hợp lý cho các chuyên viên/thanh tra viên hỗ trợ. Cán bộ chuyên quản có thể làm Trưởng đoàn thanh tra hoặc giám sát đoàn thanh tra trong trường hợp Trưởng đoàn thanh tra là chuyên viên/thanh tra viên. Cán bộ chuyên quản của các tổ chức tài chính lớn là cán bộ cấp Vụ; cán bộ chuyên quản của ngân hàng nhỏ là cán bộ cấp Phòng. Mô hình của BNM nhấn mạnh tới việc nâng cao trách nhiệm của cán bộ chuyên quản.

Để giám sát chất lượng hoạt động của cán bộ chuyên quản, BNM thành lập Hội đồng thẩm định/chất vấn để kiểm soát kết quả đánh giá/kết luận thanh tra/mức xếp hạng rủi ro… đối với Ngân hàng của cán bộ chuyên quản. Cơ cấu thành viên Hội đồng tùy thuộc vào tầm quan trọng của Ngân hàng. Đối với Ngân hàng nhỏ, thành viên Hội đồng có thể là cấp Vụ. Đối với Ngân hàng quan trọng, thành viên Hội đồng là cấp cao hơn.

(iv) Thành lập bộ phận chuyên gia rủi ro

Trong bối cảnh tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng ngày càng tăng kéo theo sự xuất hiện của các nhân tố rủi ro mới và sự thay đổi liên tục của môi trường tài chính, xuất phát từ yêu cầu phải nhận biết sâu về từng loại rủi ro tài chính để đảm bảo đánh giá được rủi ro trên cả phương diện từng định chế tài chính cũng như trên toàn hệ thống, BNM đã thành lập các bộ phận chuyên môn, chuyên nghiên cứu về rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro bảo hiểm và công nghệ. Các bộ phận này chịu trách nhiệm giám sát, kiểm tra sự phát triển và các xu hướng rủi ro trong hệ thống tài chính, từ đó, cung cấp các thông tin đầu vào về khẩu vị rủi ro, lập hồ sơ rủi ro của từng định chế, hỗ trợ quá trình xây dựng chính sách

Xem tất cả 240 trang.

Ngày đăng: 06/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí