Tuy nhiên, việc cấp dưỡng một lần sẽ gây khó khăn rất nhiều cho Thẩm phán khi tính tổng số tiền cấp dưỡng cũng như xác định thời gian, số năm kết thúc để tính số tiền cấp dưỡng một lần. Đây là vấn đề khó xác định, giả sử khi người được cấp dưỡng là người không có khả năng lao động, bị tàn tật thì khi nào nghĩa vụ chấm dứt, thời gian đó là bao lâu, Thẩm phán căn cứ vào đâu để tính số tiền mà người này sẽ nhận, hoặc khi cấp dưỡng cho chồng hoặc vợ là đối tượng được cấp dưỡng, lúc đó khó có thể xác định được khi nào người được cấp dưỡng có cuộc sống ổn định. Từ đó cho thấy việc cấp dưỡng theo phương thức định kỳ sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho Thẩm phán trong việc ấn định một mức cấp dưỡng, cũng như tính khả thi trong thực tế, bảo đảm cuộc sống ổn định của người được cấp dưỡng. Quá trình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là cả một thời gian dài cho nên sẽ phát sinh nhiều vấn đề, để tránh trường hợp làm phát sinh yếu tố bất lợi cho người được cấp dưỡng cũng như người có nghĩa vụ cấp dưỡng thì việc khuyến khích áp dụng phương thức cấp dưỡng theo định kỳ là hợp lý vừa đảm bảo tính khả thi vừa đảm bảo cuộc sống của các bên.
2.4. Thay đổi việc thực hiện cấp dưỡng
Trong thực tiễn, việc thực hiện các quy định pháp luật không phải lúc nào cũng xảy ra một cách thuận lợi mà có thể vì những lý do khách quan, việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trở nên khó khăn như người có nghĩa vụ không phải lúc nào cũng có thu nhập ổn định để thực hiện nghĩa vụ, người được cấp dưỡng không phải lúc nào cũng sống ổn định với số tiền được cấp dưỡng. Do đó, việc thực hiện nghĩa vụ này luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh trong cuộc sống của người cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Vì thế các nhà làm luật đã dự kiến các trường hợp đó và kịp thời điều chỉnh nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tốt, đảm bảo cuộc sống của các bên tham gia quan hệ cấp dưỡng.
- Thay đổi về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Cũng chính vì nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ nhân thân có tính tài sản, việc thực hiện xong nghĩa vụ cấp dưỡng một lần không hoàn toàn đồng nghĩa với việc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các bên với nhau. Thông thường cấp dưỡng một lần được thực hiện xong, nghĩa vụ cấp dưỡng của người cấp dưỡng sẽ chấm dứt. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định như đã phân tích ở trên, người cấp dưỡng vẫn có quyền yêu cầu cấp dưỡng bổ sung. Điều này là cần thiết để đảm bảo cuộc sống của người được cấp dưỡng trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhất là đối với con chưa thành niên.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
Các bên có thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm dừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng: nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết [20, Điều 54].
Quy định này đảm bảo tính khả thi của việc cấp dưỡng.
Xuất phát từ quan điểm và lối sống của người Việt Nam là tình nghĩa và tinh thần đùm bọc nhau lúc khó khăn. Do vậy, việc thay đổi vấn đề cấp dưỡng được quy định, mà ở đây là việc bổ sung cấp dưỡng khi người được cấp dưỡng có khó khăn trầm trọng xảy ra. Tuy nhiên, về mặt nguyên lý, nếu việc bổ sung cấp dưỡng được thực hiện thì việc “cấp dưỡng một lần” sẽ không có ý nghĩa. Cấp dưỡng một lần được hiểu là sau khi hoàn thành việc cấp dưỡng thì sẽ chấm dứt hoàn toàn nghĩa vụ cấp dưỡng. Việc thay đổi cấp dưỡng đặc biệt là việc tạm dừng cấp dưỡng có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người được cấp dưỡng nên được tòa xem xét thận trọng, chỉ nên cho phép tạm dừng cấp dưỡng khi sự khó khăn kinh tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng là có thật và vì những lý do chính đáng (như bị mất mùa, bị thiên tai, hỏa hoạn, ốm đau, tai nạn …).
- Thay đổi về mức cấp dưỡng
Có thể bạn quan tâm!
- Nội Dung Điều Chỉnh Pháp Luật Về Cấp Dưỡng Sau Ly Hôn
- Điều Kiện Phát Sinh Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng
- Thời Hạn Và Phương Thức Thực Hiện Cấp Dưỡng
- Người Có Quyền Yêu Cầu Thực Hiện Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng
- Về Thời Điểm Thực Hiện Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng
- Trường Hợp Cấp Dưỡng Của Bố Dượng, Mẹ Kế Cho Con Riêng Của Vợ Hoặc Con Riêng Của Chồng Khi Ly Hôn
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
Mức cấp dưỡng được thỏa thuận hoặc được ấn định bằng con đường tư pháp không nhất thiết được cố định trong suốt thời gian cấp dưỡng. Khoản 2
– Điều 53 – Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Khoản 2 – Điều 116 – Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết” [24, Điều 116]. Lý do chính đáng rất đa dạng: bị tai nạn, ốm đau, hoàn cảnh sống thay đổi… nhưng chưa có quy định nào quy định cụ thể lý do chính đáng trong trường hợp này là thế nào. Ví dụ như trong trường hợp mức sống ở địa phương thay đổi mà mức cấp dưỡng không thay đổi thì sẽ dẫn đến không đảm bảo được nhu cầu thiết yếu, cuộc sống ổn định cho người được cấp dưỡng.
- Tạm ngừng cấp dưỡng
Việc tạm ngừng cấp dưỡng có thể được chấp nhận trong trường hợp chính người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Mặt khác cũng cần có sự hướng dẫn cụ thể hơn về thời gian tạm dừng cấp dưỡng. Việc tạm dừng cấp dưỡng không thể kéo dài mà chỉ có thể cho phép tạm dừng trong một khoản thời gian nhất định. Vì vậy, pháp luật nên quy định một khoản thời gian tối đa được phép tạm dừng cấp dưỡng sao cho không ảnh hưởng đến cuộc sống của người được cấp dưỡng.
2.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn
Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng là việc người phải cấp dưỡng kết thúc, không tiếp tục thực hiện việc đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Theo quy định tại Điều 61 – Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 118 – Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt trong các trường hợp sau:
- Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động
Về nguyên tắc, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ đặt ra khi người được cấp dưỡng là người chưa thành niên hoặc là người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Vì vậy, khi người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động thì họ không được cấp dưỡng nữa. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp người đã thành niên và có khả năng lao động, song vẫn không đủ thu nhập để tự nuôi mình. Về nguyên tắc những người này sẽ không được cấp dưỡng nữa. Việc cấp dưỡng (nếu được thực hiện) là xuất phát trên cơ sở đạo đức, phong tục tập quán và tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng.
- Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình
Khi có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình, người được cấp dưỡng không còn lâm vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu nên việc cấp dưỡng là không còn cần thiết. Tuy nhiên, trong trường hợp này nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ chấm dứt nếu người được cấp dưỡng không phải là con của người cấp dưỡng. Nghĩa là giữa họ không có quan hệ cha, mẹ, con. Nếu người được cấp dưỡng là con chưa thành niên thì mặc dù có tài sản riêng nhưng cha mẹ vẫn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, do đó vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
- Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi
Khi được nhận làm con nuôi, giữa cha mẹ nuôi với người được cấp dưỡng sẽ phát sinh quan hệ cha, mẹ và con nên cha mẹ nuôi sẽ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con nuôi nên không cần phải có người khác cấp dưỡng.
- Người được cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng
không trực tiếp nuôi dưỡng người mà mình có nghĩa vụ nuôi dưỡng do hai người không sống chung. Khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người kia thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt.
- Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng đã chết
Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân than giữa các thành viên trong gia đình, dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng được thực hiện giữa các chủ thể đó với nhau nên không thể chuyển giao cho người khác. Do đó khi một bên (người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng) chết thì quan hệ cấp dưỡng chấm dứt.
- Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác
Trường hợp người được cấp dưỡng sau ly hôn mà kết hôn với người khác thì nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được chấm dứt. Bởi vì khi người được cấp dưỡng đã kết hôn với người khác thì vợ hoặc chồng mới của họ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng họ chứ không phải vợ hoặc chồng cũ. Do vậy, việc cấp dưỡng trong trường hợp này được chấm dứt.
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật
Ngoài các trường hợp trên, nghĩa vụ cấp dưỡng còn có thể chấm dứt khi người phải cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế và không thể có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Xác định tình trạng khó khăn về sức khỏe của người phải cấp dưỡng dựa vào tình trạng sức khỏe, khả năng lao động và mức thu nhập của người đó. Nếu một người trước đây có sức khỏe, có khả năng lao đọng và có thu nhập nên được xác định là có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nhưng nay tình trạng sức khỏe của họ giảm sút, nếu họ tiếp tục phải cấp dưỡng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của chính họ. Đối với những trường hợp này, nghĩa vụ cấp dưỡng của họ bị chấm dứt hoặc có thể tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Vì vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng được thực hiện theo khả năng thực tế của các bên, nên khi không đáp ứng được các điều kiện theo quyết định của pháp luật thì nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ được chấm dứt.
Ví dụ: người có nghĩa vụ cấp dưỡng đau ốm, tai nạn hoặc mất việc không có hoặc không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nữa.
2.6. Vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong thực tế có ý nghĩa quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người được cấp dưỡng. Khi bản án, quyết định về việc cấp dưỡng của Tòa án có hiệu lực, người có nghĩa vụ cấp dưỡng có thể tự nguyện thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng trong một thời hạn nhất định. Nếu hết thời hạn tự nguyện thi hành mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng không chịu thi hành thì có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Các biện pháp đó là kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản đã kê biên, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án… Các biện pháp này đã được quy định trong pháp lệnh thi hành án dân sự. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quy định về mặt nguyên tắc là: “Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Luật này” [20, Điều 50] và theo Điều 107 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: nếu không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Đối với việc không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, gây hậu quả nghiêm trọng có thể bị xử lý về hình sự theo quy định tại Điều 152 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Tuy nhiên, các biện pháp chế tài trên chỉ được áp dụng khi có hậu quả nghiêm trọng xảy ra đối với người được cấp dưỡng, nếu chưa đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Để bảo đảm thực hiện kịp thời nghĩa vụ cấp dưỡng, Điều 20 - Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định:
- Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình mà không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thì theo yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều
55 của Luật Hôn nhân và gia đình, tòa án ra quyết định buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì thời điểm đó được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của tòa án.
- Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của tòa án không tự nguyện thực hiện nghĩa của mình, thì người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của tòa án.
- Theo quyết định của tòa án, cơ quan, tổ chức trả tiền lương, tiền công lao động, các thu nhập thường xuyên khác cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ khoản cấp dưỡng để chuyển trả cho người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó theo đúng mức và phương thức cấp dưỡng do người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và người có nghĩa vụ cấp dưỡng thỏa thuận hoặc theo mức và phương thức cấp dưỡng do tòa án quyết định.
Để đảm bảo được nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện như trốn tránh mà gây hậu quả nghiêm trọng thì theo quy định tại khoản 2 – Điều 20 – Nghị định 70/NĐ-CP sẽ bị xử phạt hành chính. Nghị định số 87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình đã quy định tại Điều 12 hình thức và mức xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về cấp dưỡng.
Quy định này được thay thế tại Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Theo quy định này thì mức phạt được
thay đổi từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng quy định này trong thực tế thì quy định này thể hiện những khó khăn, bất cập, không có tính khả thi nên trong Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã đã hủy bỏ quy định xử phạt vi phạm hành chính về cấp dưỡng.
Người không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tùy theo tính chất có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định:
Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố tình từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị tù từ 3 tháng đến 2 năm [22, Điều 152].
Để làm rõ điều này, theo Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP- BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/9/2001 hướng dẫn áp dụng các quy định tại chương XV “các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng khi có đầy đủ các dấu hiệu sau:
- Người phạm tội là người có nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Người phạm tội phải có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, khả năng thực tế được hiểu là khả năng về kinh tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng như tiền, tài sản hoặc thu nhập có khả năng bảo đảm cuộc sống của gia đình với mức sống trung bình ở địa phương;