1.1.4. Hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng
Hệ thống là tập hợp những yếu tố có mối quan hệ qua lại. Một hệ thống có mục đích là hệ thống tìm cách đạt được tập hợp các mục tiêu có quan hệ với nhau. Nói chung các hệ thống đều là hệ thống mở, có quan hệ
qua lại với môi trường xung quanh. Hệ
thống thông tin là một hệ
thống
mở, có mục đích và vận hành theo chu trình thu thập xử thông tin.
lý cung cấp
Không thể hiểu thông tin một cách riêng rẽ, mà thông tin phải thuộc
một hệ
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng trong hệ thống ngân hàng Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào - 1
- Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng trong hệ thống ngân hàng Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào - 2
- Thông Tin Tín Dụng Và Hệ Thống Thông Tin Tín Dụng
- Lợi Ích Của Hệ Thống Thông Tin Tín Dụng Ngân Hàng
- Chu Trình Vận Hành Của Hệ Thống Thông Tin Tín Dụng Ngân Hàng
- Quan Hệ Giữa Các Chủ Thể Trong Hệ Thống Thông Tin Tín Dụng Ngân Hàng
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
thống, phải xuất phát từ
một hệ
thống. Ngày nay khái niệm hệ
thống thông tin đã gắn bó chặt chẽ giữa thông tin và kỹ thuật tin học. Có thể hiểu hệ thống thông tin là một tập hợp những con người, các thiết bị phần cứng, dữ liệu, phần mềm máy tính... thực hiện thu thập, lưu trữ, xử lý và phân phối thông tin trong các ràng buộc được gọi là môi trường.
Đầu vào (inputs) của hệ
thống thông tin được lấy từ
các nguồn
(Sources) và được xử lý bởi hệ thống, cùng với các dữ liệu đã được lưu trữ
trước. Sau khi xử
lý, thông tin được lưu trữ, cập nhập vào kho dữ
liệu
(Storage) và chuyển đến (Outputs) cho người sử dụng.
Hệ thống thông tin có 4 bộ phận chính là: thu thập dữ liệu đầu vào; bộ phận xử lý; kho dữ liệu và bộ phận cung cấp thông tin ra. Nguồn đầu vào của hệ thống có thể là dữ liệu từ các nguồn hoặc thông tin đầu ra của
những hệ
thống khác, ngược lại, thông tin ra của một hệ
thống có thể
được sử dụng ngay hoặc làm đầu vào cho hệ thống thông tin khác.
1.1.4.1. Khái niệm hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng
Hệ thống TTTD (Credit Information System CIS) là một hệ thống thông tin kinh tế, được thiết kế đáp ứng yêu cầu của hoạt động tín dụng ngân hàng. Hệ thống TTTD là một kết cấu tích hợp giữa các hệ thống tổ
chức, cơ chế vận hành mạng lưới TTTD quốc gia, trong đó hệ thống báo cáo TTTD (Credit information report System) là cốt lõi.
Hệ thống TTTD ngân hàng là một hệ thống thông tin bao gồm tập hợp những con người, các thiết bị phần cứng, cơ sở dữ liệu và phần mềm máy tính, thực hiện việc thu thập, lưu trữ, xử lý, cung cấp TTTD phục vụ
cho hoạt động ngân hàng nhằm hạn chế bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
rủi ro tín dụng, góp phần đảm
Hệ thống TTTD ngân hàng là một hệ thống mở, ngoài 4 bộ phận như của một hệ thống thông tin chung, nó còn liên kết với nhiều bộ phận, đơn vị hoặc hệ thống thông tin khác trong việc thu thập thông tin đầu vào cũng như xử lý và phân phối thông tin ra.
Hệ thống này gồm nhiều hệ thống con liên kết chặt chẽ với nhau, mỗi hệ thống con được thiết kế từ dưới lên trên thành một hệ thống tập trung xung quanh các chức năng chung và các môđun. Các môđun này thực hiện các chức năng chung của các hệ thống con khác nhau và cung cấp các
kết nối các tiện ích giữa các hệ
thống con. Hệ
thống TTTD có các đặc
trưng hoạt động như: điều khiển chung toàn bộ các hệ thống tín dụng, giới hạn dịch vụ, tăng hiệu năng và chất lượng sản phẩm, giảm không thu thập thông tin dư thừa, tăng yêu cầu dịch vụ khách hàng, tăng lợi nhuận, thực hiện những thay đổi thích hợp của hệ thống.
1.1.4.2. Nội dung hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng
a) Cơ quan thông tin tín dụng
Cơ quan TTTD là một tổ
chức hoạt động chuyên môn về
lĩnh vực
TTTD, có chức năng chủ yếu là thu thập, phân tích và cung cấp TTTD. Cơ quan thông tin tín dụng chính là cầu nối giữa các TCTD với nhau và giữa các TCTD với các khách hàng.
Ngân hàng Nhà nước và các TCTD đều có cơ quan TTTD. Tuy nhiên chức năng và nhiệm vụ của từng loại cơ quan khác nhau. Cơ quan TTTD hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực thông tin, do vậy đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên sâu về nhiều lĩnh vực hoạt động và phân tích kinh tế, vì vậy cơ quan TTTD có những khả năng như sau:
Khả năng tiếp cận (tìm kiếm và thu thập) thông tin đầy đủ và
khách quan hơn. Vì chỉ
có tổ
chức này mới thu thập được đầy đủ
các
thông tin đang nằm rải rác tại các TCTD. Các TCTD với vai trò là trung gian tài chính là nơi sản xuất thông tin mới nhất, mỗi một NHTM chỉ có
thể
cho vay và nắm thông tin của một số
khách hàng mà không thể
cho
vay và nắm thông tin của tất cả các khách hàng trong phạm vi một quốc gia hay nhỏ hơn là một địa phương. Mặt khác, cơ quan TTTD còn có khả
năng thu thập và tìm kiếm các thông tin khác tại các tổ chức của Nhà
nước hay trên các phương tiện thông tin đại chúng, cũng như doanh nghiệp bằng các nghiệp vụ riêng của mình.
tại chính
Khả năng phân tích thông tin một cách chính xác và hiệu quả hơn các tổ chức tín dụng. Do có nhiều nguồn thu thập thông tin, tức là nhiều sự kiện để xử lý nên khả năng phân tích thông tin của nó cũng tốt hơn. Hơn nữa, cơ quan TTTD hoạt động mang tính khách quan, không thiên vị hay vụ lợi; bảo vệ quyền lợi của người hỏi tin; đội ngũ cán bộ có khả năng đào tạo chuyên sâu, do vậy thông tin đưa ra được phân tích chính xác và khách quan hơn.
Tóm lại, để có những thông tin kịp thời, chính xác và đầy đủ cung
cấp cho các TCTD làm cơ sở cho việc quyết định cho vay những món
vay chắc chắn hay từ chối cho vay những món vay không an toàn thì cần phải có một tổ chức chuyên môn có trách nhiệm, quyền hạn trong việc
thu thập, xử
lý và cung cấp cho toàn hệ
thống. Do đó, sự
ra đời, hình
thành và hoạt động của tổ chức TTTD là tất yếu khách quan, hợp quy
luật và ngày càng trở nên cần thiết.
b) Người sử dụng thông tin
Người sử dụng thông tin của cơ quan TTTD là người có nhu cầu về TTTD để phục vụ công tác quản lý hoặc kinh doanh của mình, bao gồm:
Các TCTD: Sử
dụng TTTD để
bổ sung thông tin trong quá trình
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, đặc biệt đối với công tác thẩm định dự án đầu tư của các NHTM.
Ngân hàng Nhà nước: Sử chính sách tiền tệ.
dụng TTTD nhằm quản lý và thực thi
Các cơ quan quản lý nhà nước: Sử dụng TTTD với mục đích bổ
sung thông tin quản lý doanh nghiệp, chính sách hỗ
trợ
đầu tư, thay đổi
trong chính sách thuế… đồng thời cũng đưa ra những quyết định kịp thời nhằm ngăn chặn hoặc hạn chế các hậu quả xấu đối với nền kinh tế và xã hội đối với những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ hoặc có hành vi gian lận thương mại.
Doanh nghiệp: TTTD giúp các doanh nghiệp nắm rõ tình hình hoạt
động kinh tế
của mình, trên cơ sở
đó đưa ra chiến lược phát triển trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, mở
rộng thị
trường hay tăng khả
năng
cạnh tranh, hướng tới sự phát triển bền vững.
Các đối tác nước ngoài: Sử dụng TTTD để tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nội doanh, trên cơ sở đó lựa chọn đối tác đầu tư, quan hệ thương mại...
Các nhà đầu tư
và môi giới chứng khoán: Sử
dụng TTTD nhằm
mục đích tìm hiểu về trường chứng khoán.
doanh nghiệp phục vụ
việc kinh doanh trên thị
c) Mối quan hệ dụng thông tin
giữa cơ
quan thông tin tín dụng và người sử
Giữa người cung
ứng và người sử
dụng thông tin có thể
có nhiều
cách quan hệ với nhau. Mối quan hệ này do hai bên thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật, sau đây là một số phương thức:
Quan hệ thành viên
Mối quan hệ này được áp dụng với người sử dụng tin thường xuyên, có quan hệ thông tin 2 chiều vừa là người cung cấp tin, vừa là người sử dụng tin, ví dụ như các NHTM.
Hình thức này thường sử dụng tại các cơ quan TTTD thuộc NHTW,
hiệp hội ngân hàng hoặc cơ quan tín dụng độc lập. Việc tham gia thành
viên hoàn toàn tự nguyện, thành viên sẽ được hưởng những quyền lợi và có trách nhiệm nhất định.
Quan hệ thành viên sẽ mang lại sự phối hợp tốt giữa người cung cấp và người sử dụng tin, nên việc thu thập thông tin thuận tiện, có thể tổ chức thu thập và cung cấp thông tin qua mạng máy tính, đảm bảo thông tin nhanh nhạy, kịp thời, giảm giá thành thông tin. Tuy nhiên, do quan hệ thông tin hai
chiều nên những thành viên ít sử
dụng thông tin sẽ
không tích cực cung
cấp, hoặc không tự nguyện tham gia thành viên.
Quan hệ bạn hàng
Mối quan hệ
này được áp dụng đối với những người sử
dụng tin
không thường xuyên như các doanh nghiệp, cơ quan thông tin trong nước và nước ngoài, các nhà đầu tư, môi giới chứng khoán...
Quan hệ bạn hàng là quan hệ mua bán giữa người cung ứng và người sử dụng thông tin trên thị trường thông tin. Trách nhiệm của nhà cung ứng tin là phải có sản phẩm chất lượng tốt, chính xác, kịp thời và giá cả hợp lý.
Trách nhiệm người mua là phải trả
tiền, sử
dụng đúng mục đích, không
được sao, chuyển nhượng lại cho người khác, đảm bảo an toàn, bí mật thông tin. Hai bên có thể ký hợp đồng hoặc thoả thuận mua bán tin.
Quan hệ bạn hàng được thực hiện theo cơ chế thị trường, cạnh tranh giữa các nhà cung ứng tạo ra nỗ lực và thúc đẩy TTTD phát triển, người cần tin dễ được đáp ứng nhưng khó đảm bảo an toàn bí mật thông tin.
Quan hệ trách nhiệm theo quy định của pháp luật
Mối quan hệ này được áp dụng đối với người sử dụng tin là các cơ quan quản lý nhà nước và các đối tượng khác. Quan hệ này được thực hiện theo quy định của pháp luật, hai bên có trách nhiệm cung cấp thông tin và được khai thác sử dụng thông tin.
Một đặc điểm nổi bật của loại quan hệ này là giảm chi phí thu
thập và cung cấp thông tin, thông tin thu thập được có độ tin cậy cao
nhưng khó thực hiện ở những nước luật chưa đủ và thực hiện luật chưa có, thông tin không đa dạng.
1.1.5. Sự cần thiết phải tổ chức hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính hoạt
động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Trong kinh doanh của ngân hàng hiện đại, việc đa dạng hoá các hoạt động nghiệp vụ là hết sức cần thiết. Cùng với nhiều nghiệp vụ khác, hoạt động cấp tín dụng là một trong những lĩnh vực căn bản và quan trọng nhất trong các nghiệp vụ của NHTM. Sự cần thiết tổ chức hệ thống TTTD xuất phát từ các lý do:
Một, là thông tin không cân xứng trong hoạt động tín dụng.
Thông tin bất cân xứng là trạng thái không có sự cân bằng trong việc nắm giữ thông tin giữa các bên tham gia giao dịch. Khi đó giá cả không phải là giá cân bằng của thị trường mà nó có thể thấp hơn hoặc cao hơn dẫn tới
thị trường không đạt hiệu quả. Tình trạng thông tin bất cân xứng xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế như ngân hàng, trong thị trường nhà đất, thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường chứng khoán, thị trường đồ cũ…
Nguyên nhân, có hai nguyên nhân gây ra thông tin bất cân xứng: Thứ nhất là do những chủ thể kinh tế khác nhau quan tâm tới những đối tượng khác nhau và lượng thông tin của họ về cùng một đối tượng sẽ khác nhau. Thường thì các chủ thể kinh tế hiểu mình rõ hơn là hiểu người khác. Mức độ chênh lệch về thông tin tùy thuộc vào cơ cấu, đặc trưng của thị trường.
Thứ
hai là do chủ
thể kinh tế tham gia giao dịch có thể cố
tính che giấu
thông tin để đạt được lợi thế trong đàm phán giao dịch.
Hậu quả của thông tin bất cân xứng: Thông tin bất cân xứng gây ra ba hậu quả là lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức, vấn đề người ủy quyền người thừa hành.
Khi ngân haǹ g thực hiện cho vay đối vơí khaćh haǹ g thìrất dễgặp phải tiǹ h trạng thông tin bất cân xứng, bởi nhưñ g lído sau:
Người đi vay tiềm ẩn rủi ro cao lại là những người tích cực trong
việc tìm kiếm các khoản vay. Ngân hàng không thể có toàn bộ thông tin về khách hàng, về khả năng thu hồi vốn từ khách hàng. Có thể tín dụng được cấp cho người có rủi ro cao. Những người đáng tin cậy lại không được cấp tín dụng.
Người đi vay bao giờ cũng hiểu rõ mục đích của những khoản vay. Họ có thể không sử dụng vốn vay vào đúng mục đích đưa ra lúc vay vốn. Ngân hàng: không kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.
Ngân hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về khaćh haǹ g, chủ yếu dựa vào cảm tính của cán bộ.
Khaćh hàng cố ý che đậy thông tin hay tạo thông tin giả.
Kết quả: Ngân haǹ g cóthể lựa chọn sai cać đối tương̣ córủi ro cao để
cho vay hoặc ngân haǹ g không kiểm soat́ được mục đích sử dung vốn vay
của khaćh haǹ g…, dân tơí việc các khoản vay cóthê không được hoaǹ trả
đuń g hạn, lam̀ tăng tỷ lệ nợ xâú cua ngân hang̀ khiêń ngân hang̀ cóthể găp̣
phải cać rủi ro.
Hai, là rủi ro tín dụng xảy ra thường xuyên và gây tổn thất lớn nhất cho NHTM
Hoạt động tín dụng của NHTM có thể thực hiện thông qua nhiều
hình thức khác nhau như tín dụng trung, dài hạn, đồng tài trợ, cho thuê tài chính v.v… Trong quá trình cấp tín dụng, điểm mấu chốt nhất mà các NHTM đều quan tâm đó là tính hiệu quả và tính an toàn của khoản đầu tư, cho nên trước khi quyết định cấp tín dụng, NHTM nhất thiết phải có
những thông tin thẩm định về
khách hàng. Do đó, thông tin về
các khách
hàng của ngân hàng có vai trò rất quan trọng giúp NHTM có được cái nhìn
tổng quát, chi tiết về
từng khách hàng đang có quan hệ
tín dụng với các
ngân hàng khác. Nắm bắt được những thông tin này sẽ giúp cho NHTM có quyết định bỏ vốn đầu tư đúng đắn, hạn chế được các rủi ro đáng tiếc và có cơ sở đảm bảo được hiệu quả của vốn đầu tư.
Ba, là khách hàng của NHTM rất đa dạng và phức tạp.
Đối với các doanh nghiệp cá nhân, nhu cầu vốn rất lớn và chủ yếu đang hoạt động bằng vốn vay ngân hàng, hay nói cách khác ngân hàng là
người đầu tư vốn lớn nhất cho các doanh nghiệp và cá nhân đang hoạt
động. Chính vì thế, việc phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp cá nhân đối với cơ quan TTTD là đặc biệt quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng. Nó giúp cho các ngân hàng có thông tin cần thiết