Quản Lý Rủi Ro Đạo Đức Trong Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại 50669


cân xứng về thông tin, mà nếu NHTM không nắm rõ được nguồn thông tin sẽ dẫn tới tiềm ẩn rủi ro đạo đức sau khi kí kết hợp đồng giao dịch với khách hàng.

b. Rủi ro đạo đức do ngân hàng

Rủi ro đạo đức xảy ra đối với người quản lý ngân hàng: Chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận nhóm cán bộ quản lý đã có quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện khách hàng vay vốn có thể chưa hội tụ, thậm chí không đủ điều kiện và đã được cán bộ thẩm định ghi rõ là không duyệt, nhưng vì lý do lợi ích của cá nhân, nhà quản lý hay nhóm cán bộ quản lý đã bằng mọi cách, hướng dẫn khách hàng hợp thức hoá hồ sơ, thậm chí còn yêu cầu cán bộ thẩm định phải thực hiện theo ý kiến chỉ đạo.

Ngân hàng chạy theo mục tiêu lợi nhuận, nới lỏng quá mức các chính sách đầu tư và tín dụng nhằm đáp ứng và nắm bắt cơ hội thị trường mà bỏ qua các nguyên tắc cơ bản trong việc thẩm định, giám sát và đưa ra các điều kiện ràng buộc đối với khách hàng trước và trong khi sử dụng vốn. Ngân hàng đầu tư, cho vay quá mạo hiểm; cấp tín dụng quá tập trung, thiếu các chính sách cho vay, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ và khoa học. Ngân hàng mở rộng nhanh chóng theo hướng đầu tư vào nhiều sản phẩm mới có tính phức tạp và đòi hỏi kỹ thuật cao, nhưng trình độ của ban lãnh đạo và nhân viên cũng như công nghệ ngân hàng chưa đáp ứng kịp thời và đồng bộ. Khi các khoản đầu tư này gặp rủi ro thì thậm chí ban lãnh đạo cũng không hiểu đặc tính của sản phẩm mà nhân viên ngân hàng đang thực hiện, mức độ rủi ro và nguyên nhân của rủi ro gắn với sản phẩm đó.

Rủi ro đạo đức xuất phát từ phía nhân viên ngân hàng khi giao dịch với khách hàng. Thường thấy nhất là hành vi nhận hối lộ của khách hàng để cấp tín dụng đảo nợ, cho vay dự án nhiều rủi ro, cố ý gây khó cho khách hàng để nhận bồi dưỡng... Hoặc nhân viên ngân hàng thiếu trách nhiệm, không nắm bắt và tìm hiểu thông tin liên quan đến khoản vay một cách chính xác, thiếu thận trọng trong phân tích diễn biến thị trường liên quan tới khách hàng kinh doanh…dẫn đến việc ngân hàng quyết định cho vay những dự án, phương án không thực hiện được hay thực hiện không hiệu quả dẫn đến nợ quá hạn hoặc khách hàng không có khả năng trả nợ Một trong những biểu hiện khác của rủi ro đạo đức trong hệ thống ngân hàng

là những khoản vay chính sách mà các ngân hàng lớn của Nhà nước áp dụng cho


các doanh nghiệp nhà nước. Có nhiều khoản vay chính sách được cho là rất không hiệu quả nhưng vẫn được duy trì.

1.1.3.3. Nguyên nhân

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

Có các nguyên nhân chính phát sinh rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng:

Thứ nhất, rủi ro đạo đức tồn tại do chính sự nới lỏng kiểm soát, thiếu các chính sách cho vay, thiếu các tiêu chuẩn rõ ràng, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, khoa học từ phía ngân hàng. Trên thực tế, trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, người đi vay luôn nắm được nhiều thông tin hơn người cho vay về quá trình sử dụng vốn vay, họ có thể che giấu thông tin và thực hiện những hoạt động gây rủi ro cho khoản vốn vay mà người cho vay không mong muốn. Đây chính là hành vi rủi ro đạo đức từ phía khách hàng. Nếu các ngân hàng thiếu sự giám sát chặt chẽ thì xu hướng rủi ro đạo đức từ phía khách hàng sẽ gia tăng, gây nguy cơ tổn thất nhiều hơn cho các ngân hàng. Ngoài ra, nguyên nhân rủi ro đạo đức xuất phát từ việc lựa chọn, bố trí sử dụng cán bộ, không đánh giá đúng năng lực cũng như phẩm chất, tư cách đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng. Từ đó dẫn đến sự thông đồng giữa cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng với khách hàng, gây thiệt hại đến lợi ích chung của ngân hàng.

Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam - 5

Thứ hai, rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh ngân hàng xuất phát từ chính sự thiếu hiểu biết của nhà quản trị ngân hàng. Với thị trường tài chính ngày càng phát triển, nhiều sản phẩm tài chính mới phức tạp và đa dạng ra đời như các sản phẩm phái sinh, chứng khoán hóa… đòi hỏi ban điều hành các ngân hàng phải kịp thời nắm bắt và hiểu rõ bản chất, mức độ rủi ro của các sản phẩm tài chính, đồng thời có những chính sách quản trị rủi ro cũng như đủ nguồn lực về tài chính và nhân lực nhằm kiểm soát được mức độ rủi ro của sản phẩm tài chính được áp dụng. Tuy nhiên, thực tế các cuộc khủng hoảng tài chính cho thấy nhiều ban lãnh đạo ngân hàng thậm chí không hiểu rõ các sản phẩm tài chính phức tạp, không đưa ra được các chính sách quản lý và kiểm soát phù hợp và cốt lõi là họ vẫn thực hiện đầu tư các sản phẩm tài chính đó với cách thức kiểm soát không phù hợp. Ngoài ra, việc áp dụng những sản phẩm phái sinh tại một số ngân hàng trên thế giới cũng nhằm mục đích che giấu những khoản nợ xấu.


Thứ ba, là do sự thiếu giám sát từ phía cơ quan chính phủ, cổ đông và người gửi tiền. Người gửi tiền thường tin tưởng vào mức độ tín nhiệm của các NHTM và khả năng hoàn trả các khoản tiền gửi; đồng thời tin tưởng vào khả năng thực hiện bảo hiểm của các công ty bảo hiểm tiền gửi. Từ góc độ ngân hàng, danh tiếng và vị trí trong xã hội được coi là những tiêu chí cơ bản nhằm xây dựng hình ảnh của ngân hàng trong mắt người gửi tiền. Các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở thế kỷ 19, đầu thế kỉ 20 và 21 đã minh chứng rằng thậm chí đối với các ngân hàng có mức độ thanh khoản tốt cũng không thể thoát khỏi ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính làm cho người gửi tiền rút tiền ồ ạt. Thực tế cho thấy hàng loạt các NHTM mất khả năng thanh toán mặc dù có tham gia bảo hiểm tiền gửi. Khi có sự tham gia của bảo hiểm tiền gửi, mức độ rủi ro đạo đức không chỉ dừng lại ở hành vi của từng nhân viên ngân hàng mà ở chính sách kinh doanh với mức độ chấp nhận mạo hiểm cao trong đầu tư. Ông Gary Stem, chủ tịch của ngân hàng dự trữ liên bang Minneapolis, đã nhận định như sau: “khi một cá nhân hoặc một tổ chức được bảo hiểm, thì các cá nhân hoặc tổ chức này sẽ có động cơ đầu tư vào các hoạt động rủi ro hơn các cá nhân hoặc các tổ chức không được bảo hiểm” [79]. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng với khẩu ngữ “rủi ro cao lợi nhuận cao” thì động lực như ông Gary Stem nói càng trở nên mạnh mẽ hơn.

Như vậy, những hệ thống tài chính được giám sát chặt chẽ sẽ giúp giảm mức độ thiệt hại cho ngân hàng, cũng như giúp cho cơ quan quản lý dự đoán hoặc ngăn chặn được trước những sự cố xảy ra.

Thứ tư, rủi ro đạo đức của các tổ chức tài chính tín dụng nảy sinh từ chính sự hậu thuẫn của chính phủ nhằm cứu giúp các tổ chức tài chính tín dụng lớn thoát khỏi sự sụp đổ, đây là một trong những yếu tố khiến các tổ chức này thực hiện các hành vi đầu tư ẩn chứa rủi ro đạo đức. Có những nghiên cứu cho rằng, trong một thị trường thậm chí không có hệ thống bảo hiểm tiền gửi chính thức thì bàn tay can thiệp của chính phủ cũng gây nên rủi ro đạo đức [97]. Bài học thực tế tại nhiều cuộc khủng hoảng tài chính cho thấy, với nhiều chính sách nới lỏng quản lý của chính phủ nhằm giao quyền tự chủ và tăng tính cạnh tranh cho các tổ chức tín dụng, đồng thời với ý thức rằng chính phủ sẽ sẵn sàng ra tay cứu trợ cho các tổ chức tín dụng quy mô lớn nhưng đã mất khả năng thanh toán nhằm duy trì niềm tin của công


chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng (too big to be fail), nhiều tổ chức tín dụng đã có những chính sách đầu tư rủi ro và nới lỏng điều kiện tín dụng với khách hàng vay vốn. Đây chính là minh chứng của rủi ro đạo đức trong NHTM. Nhưng hậu quả trầm trọng hơn là, một khi các tổ chức tín dụng này mất khả năng thanh toán, nhưng chính phủ vẫn ra tay cứu giúp hoặc vẫn cho các tổ chức này tồn tại và kinh doanh, thì mức độ rủi ro đạo đức trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết, vì khi đó các tổ chức tín dụng này trở thành những con bạc mất trắng, sẽ liều lĩnh đầu tư vào các hoạt động vô cùng rủi ro với hi vọng cứu vãn tình thế và biết rằng mình chẳng còn gì để mất. Như vậy, việc loại bỏ bảo hiểm tiền gửi cũng không giải quyết được tình trạng rủi ro đạo đức.

Các nguyên nhân khác: Ngân hàng là ngành nghề kinh doanh dựa trên nền tảng niềm tin, người dân tin tưởng ngân hàng mà gửi tiền, tạo nguồn vốn huy động cho ngân hàng. Ngân hàng phát triển dựa trên uy tín của mình, một khi niềm tin đã mất thì khó lòng có thể khôi phục và tiếp tục tồn tại trong thương trường. Do đó, đạo đức, uy tín nghề nghiệp đối với đội ngũ nhân viên - bộ mặt của ngân hàng lại càng trở nên quan trọng. Theo sự phát triển của nền kinh tế, của công nghệ thông tin hiện đại, những giá trị vật chất ngày càng được coi trọng và đề cao, càng đẩy những chuẩn mực đạo đức trở nên thứ yếu, chìm dần sau ánh hào quang của sự giàu sang, địa vị và quyền lực. Sức hút của đồng tiền ngày càng trở nên mạnh mẽ, cuốn theo đó, chữ tâm trong kinh doanh cũng đang dần bị xem nhẹ. Chính vì thế, nguyên nhân mấu chốt của sự gia tăng những vi phạm đạo đức là vấn đề con người. Nguồn nhân lực yếu kém không chỉ tạo ra những hạn chế trong quản trị ngân hàng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, mà còn tiềm ẩn rủi ro đạo đức rất lớn.

Thêm vào đó, vấn đề tuyển dụng nhân sự của các ngân hàng cũng rất được quan tâm, nhất là bộ phận tín dụng và tái thẩm định. Đa phần nhân sự ở bộ phận này là các sinh viên mới ra trường, còn thiếu kinh nghiệm và bản lĩnh, cũng như tính độc lập và quyết đoán nhất định. Họ rất khó đưa ra ý kiến hoặc từ chối sự chỉ định “theo khuôn mẫu” của các lãnh đạo phòng ban. Ý kiến của một bộ phận đơn lẻ không thể ảnh hưởng nhiều đến quyết định tín dụng, nhưng rủi ro đạo đức vẫn tồn tại, vẫn có thể đe dọa đến đạo đức kinh doanh của ngân hàng.


Xét về khách quan rất nhiều ngân hàng đã bắt đầu công cuộc tái cơ cấu, nhưng vấn đề các ngân hàng quan tâm là tập trung đi tìm mô hình tổ chức hợp lý cho mình, trong khi đó quy định nội bộ thì rất chung chung. Ranh giới giữa đúng và sai rất mong manh. Sự thiếu minh bạch, dễ gây hiểu nhầm là cơ hội cho nhiều cá nhân thực hiện những hành vi không đúng. Quy định nội bộ chung chung rất dễ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật để trục lợi.

Trong khi đó, cơ chế kiểm soát tín dụng của nhiều ngân hàng tồn tại nhiều nhược điểm. Với sự mở rộng mạng lưới hoạt động (chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm) trên cả nước dẫn đến sự phân tán nhất định của các nguồn lực. Sự quản lí từ xa, thiếu tính giám sát trực tiếp và chặt chẽ của Hội sở chính đối với các chi nhánh rất dễ dẫn đến các vấn đề rủi ro đạo đức, đặc biệt trong công tác thẩm định tín dụng.

Hiện nay, mới chỉ vài ngân hàng đã áp dụng được công tác quản lý tín dụng tập trung. Trong đó, hội sở kiểm soát chặt chẽ được các hồ sơ tín dụng, lực lượng kiểm soát tín dụng được trao thực quyền, tổ chức tốt và đặc biệt là được nắm quyền hạch toán giải ngân nên đã hạn chế được nhiều rủi ro đạo đức. Và một điều cũng khá nhạy cảm, là có dư luận cho rằng, một số ngân hàng lớn có uy tín trong xã hội đã lạm dụng cụm từ “đổi mới, trẻ hóa nguồn nhân lực” để thay thế những cán bộ có kinh nghiệm lâu năm, có đạo đức nghề nghiệp.

1.1.3.4. Tác hại của rủi ro đạo đức

Đối với Ngân hàng thương mại

Thứ nhất, rủi ro đạo đức làm tổn hại trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của chính NHTM. Khi rủi ro đạo đức xảy ra đối với hoạt động tín dụng, có thể xuất phát do khách hàng có rủi ro đạo đức, hoặc do rủi ro đạo đức trong chính hoạt động kinh doanh của ngân hàng tạo nên, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả, chi phí của ngân hàng tăng lên so với dự kiến. Nếu có một khoản vay bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào đấy, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì


ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh và năng lực tài chính giảm sút.

Thứ hai, rủi ro đạo đức dẫn tới sự suy giảm uy tín trong kinh doanh của ngân hàng. Từ những phân tích trong phần trên cho thấy khi ngân hàng gặp rủi ro thanh khoản, năng lực tài chính giảm sút thì sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của ngân hàng đó. Lòng tin của người gửi tiền và cổ đông vào ngân hàng và mức độ an toàn của đồng vốn gửi vào ngân hàng bị suy giảm, cho dù mức độ rủi ro đó xuất phát từ phía khách hàng của ngân hàng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng cạnh tranh và sự phát triển bền vững của ngân hàng.

Đối với nền kinh tế

Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của NHTM là một tổ chức trung gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức, các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.

Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn.

Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả biến động, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.

Ngoài ra, rủi ro đạo đức cũng được coi là một trong những nguyên nhân dẫn tới các cuộc khủng hoảng tài chính thế giới như khủng hoảng tài chính Châu Á (1997), cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) và hiện nay là cuộc khủng hoảng xuất phát từ nợ dưới chuẩn từ Mỹ đã làm rung chuyển toàn cầu.

Trên thực tế, khi định chế tài chính, NHTM sụp đổ, Chính Phủ thường đưa ra các gói cứu trợ. Đây không phải là sự ưu ái, mà chỉ để tránh một sự sụp đổ lớn


hơn đối với cả một hệ thống, một nền kinh tế. Chính câu chuyện này cũng dẫn đến một số định chế tài chính, NHTM có thể "làm ăn liều", bởi họ cho rằng, kiểu gì Chính Phủ cũng phải cứu khi họ có vấn đề, bởi nếu không cả hệ thống sẽ sụp đổ.

Như vậy có thể khẳng định tác hại mà rủi ro đạo đức gây ra là nghiêm trọng đối với nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro đạo đức.

1.2. QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro đạo đức

Hoạt động kinh doanh của NHTM luôn tiềm ẩn nhiều loại rủi ro, rủi ro đạo đức có thể xảy ra tại bất kỳ loại hình kinh doanh dịch vụ nào của ngân hàng, do vậy để giảm thiểu các loại rủi ro trước tiên phải quản lý tốt rủi ro đạo đức trong mọi hoạt động của ngân hàng.

Quản lý rủi ro đạo đức là việc mà các chủ thể quản lý sử dụng hệ thống các chính sách, biện pháp để nhận dạng, đo lường, kiểm soát và theo dõi, giám sát rủi ro nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro đạo đức có thể xảy ra và xử lý khi rủi ro đạo đức xảy ra.

1.2.2. Chủ thể quản lý rủi ro đạo đức

Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn được đặt dưới một hệ thống quy định chặt chẽ do Chính phủ, các cơ quan nhà nước ban hành nhằm kiểm soát hoạt động ngân hàng, kiểm soát việc cung cấp dịch vụ ngân hàng, chất lượng tín dụng, tình trạng vốn chủ sở hữu và cả cách thức ngân hàng phát triển, mở rộng hoạt động dịch vụ với mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng phục vụ cộng đồng.

Trong bối cảnh hiện nay tại Việt Nam, các NHTM hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước: Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động kinh doanh của NHTM mà trực tiếp là chịu sự quản lý chặt chẽ của NHNN. Khi các ngân hàng trong hệ thống tài chính thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ tài chính khác cho khách hàng, họ phải tiến hành những công việc đó trong


một khung pháp lý chặt chẽ được xây dựng chủ yếu để bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Việc các ngân hàng cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi và các công cụ tài chính khác cho công chúng để huy động vốn đòi hỏi phải có sự cho phép của các cơ quan quản lý ngân hàng với mức lãi suất huy động được quy định từng thời kỳ. Chất lượng danh mục cho vay và đầu tư cũng như sự hợp lý về vốn chủ sở hữu ngân hàng luôn được các thanh tra ngân hàng xem xét cẩn thận. Khi một ngân hàng muốn mở rộng hoạt động bằng cách xây dựng một tòa nhà mới, sáp nhập với một ngân hàng khác, thiết lập văn phòng chi nhánh hoặc tiếp nhận hay bắt đầu một hoạt động kinh doanh phi ngân hàng thì đều phải có sự đồng ý của cơ quan quản lý. Các NHTM không thể tự do tham gia hay rút lui khỏi ngành ngân hàng nếu không có sự đồng ý của các cơ quan quản lý mà trực tiếp là Chính phủ và NHNN Việt Nam.

Tuy nhiên, hệ thống giám sát thận trọng đã có nhiều sự thay đổi. Thứ nhất, với việc xuất hiện nhiều giao dịch phức tạp, việc giám sát thận trọng đã tập trung nhiều vào giám sát hệ thống quản trị rủi ro của các NHTM và ít tập trung vào việc giám sát từng giao dịch. Thứ hai, dưới làn sóng tự do hóa tài chính, kiểm soát lãi suất đã được nới lỏng và cũng như dỡ bỏ dần các hạn chế trong việc lựa chọn tài sản đầu tư của các NHTM. Thứ ba, những nhà quản lý vĩ mô đã tập trung nhiều vào yêu cầu vốn tối thiểu sử dụng các chuẩn mực của Hiệp ước Basel.

Như vậy, chủ thể quản lý rủi ro đạo đức bao gồm: (1) Cơ quan quản lý vĩ mô (NHTW) và (2) Các NHTM.

1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro đạo đức

1.2.3.1. Nhân tố thuộc về cơ quan quản lý

Thứ nhất, mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng:

Mô hình tổ chức của cơ quan thanh tra ngân hàng là nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro đạo đức của ngân hàng vì nếu mô hình tổ chức của cơ quan thanh tra ngân hàng hợp lý, việc điều phối hợp lý lực lượng cán bộ thanh tra trong toàn hệ thống để triển khai chương trình công tác thanh tra thực hiện được tốt và ngược lại, nếu mô hình tổ chức của cơ quan thanh tra ngân hàng không hợp lý, còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với yêu cầu thực hiện giám sát dựa trên cơ sở rủi ro thì nhiều sai phạm của các NHTM không được thanh tra ngân hàng cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu.

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí