nhìn đến năm 2030; xác định rõ định hướng chiến lược phát triển du lịch. Đã tận dụng, khai thác và phát huy tốt tiềm năng, thế mạnh để phát triển du lịch, đạt được nhiều kết quả quan trọng, dần khẳng định vị thế là điểm đến nổi bật trong nước cũng như trên bản đồ du lịch thế giới. Tỉnh Quảng Bình đã tập trung đầu tư, phát triển và khai thác các sản phẩm du lịch mới, như đưa vào khai thác các tuyến du lịch sông Chày - hang Tối, hang Én, thung lũng sinh Tồn - hang Thủy Cung, động Thiên Đường; khám phá hệ thống hang động Tú Làn - hang Tiên… Đặc biệt, tuyến du lịch đẳng cấp quốc tế “Chinh phục Sơn Đoòng - hang động lớn nhất thế giới” được đưa vào thử nghiệm đã thu hút hàng triệu người trên thế giới quan tâm, Sơn Đoòng thực sự đã trở thành điểm đến và điểm nhấn của du lịch Quảng Bình và du lịch Việt Nam. Các điểm du lịch biển Bảo Ninh, Nhật Lệ, Quang Phú được công nhận và đang dần khẳng định vị thế du lịch biển của Quảng Bình. Bên cạnh đó, du lịch tâm linh cũng có những bước khẳng định mới, Đền thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh, núi Thần Đinh, đền thờ các anh hùng liệt sỹ đường 20 Quyết thắng và hang Tám thanh niên xung phong ngày càng được nhiều du khách biết đến. Đặc biệt, sự trở về với đất mẹ Quảng Bình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm cho khách thập phương về với Quảng Bình để tri ân, tìm hiểu về vùng đất, con người Quảng Bình ngày càng nhiều thêm.
Công tác quảng bá các sản phẩm du lịch Quảng Bình đã được quan tâm. Các giải pháp cho hoạt động tuyên truyền, quảng bá du lịch được triển khai thông qua nhiều kênh khác nhau, như: tổ chức các Hội nghị xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch tại các tỉnh, thành phố trong nước; chủ động tham gia các sự kiện thường niên về du lịch trong nước, quốc tế; quảng bá hình ảnh du lịch Quảng Bình trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên internet, sách du lịch, bàn đồ, đĩa DVD; công bố logo du lịch Quảng Bình…
Chất lượng phục vụ khách du lịch ngày một theo hướng chuyên nghiệp hóa, đây là một trong những mục tiêu quan trọng của ngành du lịch Quảng
48
Bình. Ngành du lịch Quảng Bình đã không ngừng đổi mới sáng tạo, phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành, địa phương và các tổ chức có liên quan để thực hiện việc nâng cao các chất lượng dịch vụ du lịch, trong đó chú trọng đến nâng cao chất lượng lưu trú, lữ hành, vận chuyển khách… phối hợp với các ngành chức năng đảm bảo an ninh du lịch, xây dựng môi trường du lịch an toàn, sạch đẹp và thân thiện. Chú trọng đào tạo, tổ chức và phối hợp tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỷ năng ứng xử với du khách cho đội ngũ thuyết minh viên, hướng dẫn viên, đội ngũ quản lý, giám sát và phục vụ du khách trên các tuyến du lịch; đội ngũ lái xe và nhân viên phục vụ trên xe, trên thuyền vận chuyển khách du lịch; nghiệp vụ du lịch, nghiệp vụ quản lý và nghiệp vụ bàn, buồng, bếp, lễ tân cho các cơ sở lưu trú, nhà hàng đạt chuẩn phục vụ khách du lịch… Nhờ vậy, chất lượng dịch vụ, năng lực phục vụ khách du lịch tại các khu, điểm, cơ sở lưu trú, nhà hàng từng bước được nâng cao, vận chuyển khách du lịch ngày càng được chú trọng nâng cao chất lượng theo hướng chuyên nghiệp.
Công tác QLNN, triển khai thực hiện các quy hoạch, đề án, kế hoạch, chương trình phát triển du lịch đã được tăng cường, đảm bảo tiến độ và mang lại hiệu quả cao, chú trọng hướng đến xây dựng thương hiệu của du lịch Quảng Bình trong khu vực và quốc tế, hướng đến các mục tiêu vì lợi ích của người dân, DN, đảm bảo phát triển du lịch theo hướng bền vững.
Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật du lịch được đầu tư khá đồng bộ và ngày càng được mở rộng về quy mô, nâng cao về chất lượng. Toàn tỉnh có 350 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó có 03 khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao, 6 khách sạn 4 sao, 84 khách sạn, khu du lịch được xếp hạng từ 3 sao trở lên với khoảng 5.100 buồng, 10.000 giường. Có 40 đơn vị lữ hành đăng ký hoạt động, trong đó có 14 đơn vị lữ hành quốc tế, 26 đơn vị lữ hành nội địa. Có gần 3.000 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, cửa hàng phục vụ du khách, trong đó có 21 nhà hàng được cấp biển hiệu. Nhiều tập đoàn lớn đầu tư các dự
án khách sạn, trung tâm thương mại, khu du lịch nghỉ dưỡng, thể thao giải trí cao cấp như Pullman, FLC, Indochina, TMS, Ciputra…
Giai đoạn 2011 - 2015 Quảng Bình đón gần 9,2 triệu lượt khách, tốc độ tăng trưởng bình quân trên 37%. Năm 2012, lần đầu tiên Quảng Bình đón trên 1 triệu lượt khách; năm 2014, đón trên 2,7 triệu lượt khách tăng gấp đôi năm 2013 và năm 2015 đón 2,862 triệu lượt khách. Tổng doanh thu du lịch trong giai đoạn 2011 - 2015 đạt 9.840 tỷ, tăng trưởng bình quân 54%, đóng góp quan trọng trong tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm gần 50% GDP toàn tỉnh.
Năm 2016, sự cố môi trường biển làm cho ngành du lịch Quảng Bình bị thiệt hại nặng nề. Khách du lịch giảm 29,35% so với năm 2015 và giảm 43% so với kế hoạch năm 2016; khách quốc tế giảm 4,4% so với cùng kỳ năm 2015; tổng thu từ khách du lịch giảm 30% so với năm 2015 và giảm 46% so với kế hoạch năm 2016 (doanh thu du lịch thiệt hại ước 1.700 tỷ đồng).
Năm 2017, tỉnh Quảng Bình đã tập trung các giải pháp để phục hồi du lịch, tổ chức các hội nghị xúc tiến, quảng bá và liên kết du lịch với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, như: Chương trình quảng bá du lịch và mở 02 đường bay mới: Đồng Hới - Chiềng Mai (Thái Lan), Đồng Hới - Cát Bi (Hải Phòng); liên kết tổ chức vòng thi trang phục dân tộc Hoa hậu hòa bình thế giới, quảng bá du lịch và cuộc thi Hoa hậu trên trang điện tử du lịch lớn nhất thế giới TripAdvisor®... khai thác nhiều tuyến du lịch mới, như: Khám phá hang Đại Ả, hang Over, hang Pygmy; khám phá tộc người Vân Kiều - khe Nước Lạnh - hang Văn Công; tìm hiểu văn hoá tộc Người Arem, MaCoong, khám phá hang Rục Cà Roòng; mở tour du lịch khám phá Sơn Đoòng với lộ trình mới 4 ngày 3 đêm. Tổng số lượt khách du lịch đến Quảng Bình đạt 3,3 triệu lượt, vượt 10% so kế hoạch, tăng 70,9% so cùng kỳ, trong đó khách quốc tế 80.000 lượt, tăng 8,7% so cùng kỳ; hệ số lưu trú ước đạt 1,14 ngày/khách. Công suất sử dụng phòng đạt 49%. Tổng doanh thu du lịch đạt
3.706 tỷ đồng, tăng 64,7% so cùng kỳ, trong đó doanh thu chuyên ngành du lịch đạt 621 tỷ đồng, tăng 53,6% so cùng kỳ.
Năm 2018, Quảng Bình tham gia Hội chợ du lịch quốc tế thành phố Hồ Chí Minh; phối hợp với Tổng cục Du lịch quảng bá, xúc tiến du lịch tại hội chợ du lịch lớn nhất thế giới ITB Berlin; trao đổi, liên kết hợp tác phát triển du lịch với tỉnh Bến Tre và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; Hội nghị kết nối du lịch Quảng Bình - Nakon Phanom (Thái Lan), các tỉnh Bắc và Trung Lào và Udonthani (Thái Lan)… khai thác Tour du lịch khám phá thiên nhiên và tìm hiểu văn hóa cộng đồng người Vân Kiều ở huyện Quảng Ninh và Lệ Thuỷ, khám phá hang Ô Rô - hang Hoàn Mỹ; khám phá hang Va, hang Nước Nứt; Hội thi Cá trắm và đua thuyền sông Son; cung đường bích họa ở làng biển Cảnh Dương; tổ chức Lễ hội cầu ngư ở Cảnh Dương;… Tổng lượt khách du lịch đến Quảng Bình đạt 3,9 triệu lượt, tăng 18,2% so cùng kỳ, trong đó khách quốc tế đạt 180.000 lượt, tăng 38,5% so cùng kỳ; Tổng doanh thu du lịch đạt 4.255 tỷ đồng, tăng 12,1% so cùng kỳ; Nộp ngân sách đạt: 158,7 tỷ đồng, tăng 10% so cùng kỳ. Tổng hợp lượng khách du lịch đến tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2015 - 2018 được thể hiện trong bảng 2.1.
Bảng 2.1. Lượng khách du lịch đến Quảng Bình 2015 - 2018
Đơn vị tính: lượt khách
Năm 2015 | Năm 2016 | Năm 2017 | Năm 2018 | |
Tổng số lượt khách | 2.862.000 | 1.990.000 | 3.300.000 | 3.900.000 |
+ Khách quốc tế | 46.900 | 37.162 | 80.000 | 180.000 |
T/lệ % so với tổng số | 1,63% | 1,95% | 2,42% | 4,61% |
+ Khách nội địa | 2.393.000 | 1.952.838 | 3.220.000 | 3.720.000 |
T/lệ % so với tổng số | 98,37% | 98,05% | 97,58% | 95,39% |
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Quảng Bình - 5
- Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Quảng Bình - 6
- Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Quảng Bình - 7
- Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Quảng Bình - 9
- Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Quảng Bình - 10
- Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Quảng Bình - 11
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
Nguồn: Sở Du lịch tỉnh Quảng Bình
Du lịch Quảng Bình đã được báo chí trong nước và quốc tế đánh giá cao: Tạp chí The New York Times (Mỹ) bình chọn là điểm đến hấp dẫn xếp ở vị trí thứ 8/52 của thế giới và đứng thứ 1/12 điểm đến trong khu vực châu Á;
Lonely Planet xuất bản cuốn sách hướng dẫn du lịch - một trong những cuốn sách được khách du lịch nước ngoài yêu thích đã dành 6 trang để ca ngợi về vẻ đẹp của Phong Nha - Kẻ Bàng và Quảng Bình; Hang Sơn Đoòng được Tạp chí News của Oxtrâylia xếp vào điểm đến “đẹp không thể tin nổi” trên trái đất; Tạp chí du lịch Business Insider của Mỹ bình chọn Hang Sơn Đoòng là một trong Top 12 hang động kỳ vỹ nhất trên thế giới; Tạp chí khoa học Smithsonian bình chọn Sơn Đoòng xếp thứ nhất trong danh sách 25 điểm đến hấp dẫn nhất thế kỷ 21; Sơn Đoòng và hang Én đã được truyền hình trực tiếp trong chương trình Good Morning America của hãng ABC đã gây tiếng vang lớn cho du lịch Quảng Bình và du lịch Việt Nam nói chung trên toàn cầu, một sự kiện tiêu biểu của du lịch Việt Nam; Sơn Đoòng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch lựa chọn là điểm nhấn trong các chương trình xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tại Singapore và Indonesia.
Tuy vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng du lịch tỉnh Quảng Bình chưa đồng bộ, chưa theo kịp tốc độ phát triển của ngành, còn thiếu các trung tâm thương mại, siêu thị, khu vui chơi giải trí, điểm dừng chân du lịch, các cơ sở lưu trú cao cấp... Thời gian lưu trú bình quân thấp, các dịch vụ còn thiếu, chất lượng dịch vụ chưa cao. Đầu tư khai thác các sản phẩm, loại hình du lịch còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh. Du lịch Quảng Bình chủ yếu dựa vào tài nguyên tự có để phát triển du lịch, như khai thác một số hang động, bãi tắm biển, du lịch tâm linh… tính thời vụ trong phát triển du lịch còn cao, khách chủ yếu tập trung vào mùa hè. Chất lượng NNL DL còn hạn chế, nhất là NNL quản lý có trình độ cao tại các cơ quan QLNN cũng như các DN kinh doanh du lịch, đội ngũ nhân viên du lịch còn thiếu và yếu, nhất là về chuyên môn, phần đông làm việc còn "tay ngang", chưa qua đào tạo các lĩnh vực chuyên môn về du lịch. Nhận thức của cộng đồng và các cấp QLNN về phát triển du lịch, nhất là phát triển du lịch bền vững còn hạn
chế. Trách nhiệm của các cấp, các ngành và các địa phương đối với phát triển du lịch chưa được phát huy đầy đủ.
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Tình hình chung về nguồn nhân lực du lịch tỉnh Quảng Bình
Lao động trong ngành du lịch là loại lao động đặc thù, có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của một quốc gia và của từng địa phương, tham mưu cho các cấp đảng, chính quyền đề ra đường lối, chính sách phát triển du lịch bền vững. Mặt khác, họ cũng đại diện cho nhà nước để hướng dẫn, giúp tạo điều kiện cho các DN du lịch hoạt động hiệu quả, cũng như kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh đó.
Cùng với sự phát triển của du lịch, NNL ngành du lịch tỉnh Quảng Bình tăng dần qua các năm thể hiện tại bảng 2.2.
Bảng 2.2. Nhân lực du lịch tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2015 - 2018
Đơn vị tính: người
Lao động trực tiếp | Lao động gián tiếp | Tổng số | |
2015 | 3.720 | 7.800 | 11.520 |
2016 | 3.900 | 8.050 | 11.950 |
2017 | 4.200 | 8.400 | 12.600 |
2018 | 4.500 | 8.800 | 13.300 |
Nguồn: Sở Du lịch tỉnh Quảng Bình
Tính đến tháng 12/2018, lao động toàn ngành du lịch tỉnh Quảng Bình là
13.300 lao động, trong đó lao động trực tiếp 4.500 lao động (chiếm 33,83%), lao động gián tiếp 8.800 lao động (chiếm 66,17%) tương ứng với tỷ lệ 1 lao động trực tiếp tương ứng với 2 lao động gián tiếp.
Trong tổng số lao động trực tiếp, cơ cấu lao động phân bố như sau: nhà hàng 30%; khách sạn 40%; lữ hành 14%, vận chuyển khách 10%, hướng dẫn viên 6%. Cơ cấu lao động trực tiếp của ngành du lịch Quảng Bình thể hiện tại biểu đồ 2.1.
Nhà hàng Khách sạn Lữ hành
Vận chuyển khách
Hướng dẫn viên
6%
10%
30%
14%
40%
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu lao động trực tiếp của ngành du lịch Quảng Bình
Nguồn: Sở Du lịch Quảng Bình
Như vậy, trong tổng số lao động trực tiếp của ngành du lịch Quảng Bình thì lĩnh vực dịch vụ lưu trú thu hút nhiều lao động nhất (40%); hướng dẫn viên chiếm ít nhất (6%). Tuỳ theo tính chất loại hình dịch vụ mà cơ cấu lao động cũng như yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và độ tuổi lao động cho phù hợp.
2.2.2. Nhân lực du lịch hoạt động khách sạn, nhà hàng và các khu, điểm du lịch
2.2.2.1 Về nhân lực làm việc tại khách sạn
Tổng số lao động thuộc lĩnh vực dịch vụ khách sạn tỉnh Quảng Bình là 1.800 người, chiếm 40% lao động trực tiếp toàn ngành du lịch của tỉnh; trong đó lao động nữ là 1.062 lao động, chiếm 59%, lao động nam là 730 lao động, chiếm 41%. Chất lượng lao động làm việc tại khách sạn thể hiện ở bảng 2.3.
Bảng 2.3. Chất lượng lao động trong khách sạn
Số lượng | Tỷ lệ % | Trình độ đào tạo | Số lượng | Tỷ lệ % | Ngoại ngữ | Số lượng | Tỷ lệ % | |
<30 | 954 | 53,0 | Đại học và trên đại học | 378 | 21,0 | Trên đại học | 2 | 0,12 |
30-50 | 576 | 32,0 | Cao đẳng | 306 | 17,0 | Đại học | 162 | 9,0 |
51-55 (nữ) | 99 | 5,5 | Trung cấp | 414 | 23,0 | Chứng chỉ A,B,C,D | 937 | 52,0 |
51-60 (nam) | 72 | 4,0 | Đào tạo ngắn hạn | 288 | 16,0 | Toeic | 3 | 0,16 |
>55 (nữ) >60 (nam) | 99 | 5,5 | Sơ cấp nghề dưới 3 tháng | 72 | 4,0 | Không biết ngoại ngữ | 696 | 38.72 |
Chưa qua đào tạo | 342 | 19,0 | ||||||
Cộng | 1.800 | 100 | 1.800 | 100 | 1.800 | 100 |
Nguồn: Sở Du lịch Quảng Bình
Tỷ lệ lao động có tuổi đời dưới 50 tuổi chiếm tỷ trọng trên 85%. Đây là con số lý tưởng về lao động trong dịch vụ du lịch, phù hợp tính chất công việc, trẻ và năng động, dịch vụ chăm sóc khách tốt hơn.
Về tính chất công việc: các vị trí công việc chủ yếu trong dịch vụ khách sạn gồm lễ tân, buồng, an ninh khách sạn, quản lý khách sạn, quản lý khu giải trí, quản lý khu nghỉ dưỡng. Trong đó nhân viên lễ tân, buồng, phòng chiếm tỷ lệ 56,31%.
Về trình độ chuyên môn: Đại học và trên đại học là 378 người, chiếm 21%; cao đẳng 306 người, chiếm 17%; trung cấp 414 người, chiếm 23%; lao động qua đào tạo ngắn hạn 288 người, chiếm 16%; sơ cấp nghề 72 người, chiếm 4%; lao động chưa qua đào tạo là 342 người chiếm 19%.
Về trình độ ngoại ngữ: Lao động trực tiếp có chứng chỉ ngoại ngữ trong phạm vi nghề trở lên đạt hơn 61%. Trong đó, ngoại ngữ phổ biến là tiếng Anh, tiếng Trung và tiếng Pháp. Còn lại 38,72% lao động chưa có trình độ ngoại ngữ. Thực tế cho thấy ngoại ngữ là rào cản lớn nhất của lao động lĩnh vực du lịch Quảng Bình, người có chứng chỉ ngoại ngữ nhưng không sử dụng