Giáo Dục, Giáo Dục Truyền Thống Văn Hóa Dân Tộc Cho Học Sinh

luyện rèn những phẩm chất cần thiết cho một tương lai tươi sáng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của nhà trường trong chế độ mới: "Cốt nhất là phải dạy học trò biết yêu nước, thương nòi, phải dạy cho họ ý chí tự lập tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ.

Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước (từ năm 1986), nhất là những năm gần đây có nhiều công trình, đề tài khoa học, hội thảo khoa học về lĩnh vực văn hóa đã được công bố và có liên quan đến đề tài này với nhiều góc độ khác nhau. Tác giả Trần Văn Giàu với “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” nói về những giá trị văn hóa tinh thần của người Việt Nam đó là lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý chí độc lập và tự cường, lòng yêu thương độ lượng, sống có tình nghĩa, cần cù sáng tạo, tiết kiệm, tôn sư trọng đạo [10, tr.100]...; tác giả Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang với “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay” đã nghiên cứu về truyền thống và những cơ sở tạo nên truyền thống Việt Nam; cái chung và cái riêng trong truyền thống văn hóa của các cộng đồng dân cư Việt Nam [133, tr.3]; tác giả Trần Ngọc Thêm, với tác phẩm “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” nói về văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng (đời sống tập thể, đời sống cá nhân), văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, xã hội [24, tr.16]; “Cơ sở Văn hóa Việt Nam” đã cung cấp những kiến thức, khái niệm cơ sở nền tảng cho ngành văn hóa học. Tác phẩm “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của tác giả Phan Ngọc [199]; tác giả Trần Mạnh Thường có tác phẩm “Việt Nam văn hóa và Giáo dục” [255]. Với quan điểm Dân tộc học, tác Phan Hữu Dật có tác phẩm “Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam” [7]; tác giả Nguyễn Hồng Hà “Văn hóa truyền thống dân tộc với giáo dục thế hệ trẻ” đã nêu ra những yêu cầu trong việc giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc cho thế hệ trẻ là rất cần thiết [111]; bên cạnh đó cũng có nhiều bài viết về văn hóa và giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc trong nhà trường như tác giả Nguyên Sa “Lào Cai xây dựng và phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc” [20, tr.10]; “Trường học đa văn hóa

gắn với cộng đồng ở Lào Cai” của tác giả Trọng Bảo [2, tr.15]; tác giả Phạm Thị Thanh với đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Điện Biên” [222]; tác giả Vũ Thị The với đề tài nghiên cứu về quản lý giáo dục giá trị văn hóa, truyền thống địa phương cho HS trung học phổ thông vùng Tây Bắc thông qua các hoạt động trải nghiệm, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông [26, tr.163].

Hầu hết các tài liệu, công trình nghiên cứu đã đề cập đến những nét văn hóa truyền thống của các dân tộc, việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đó. Cũng có một số công trình nghiên cứu về việc giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc cho học sinh các trường phổ thông nói chung và bậc Trung học cơ sở nói riêng.

1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Quản lý

Các nhà khoa học quản lý đã đưa ra nhiều khái niệm về quản lý khác nhau như: Fayol “quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: Kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát ấy”; F.W Taylor cho rằng: Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất. Còn ông H.Koontz thì khẳng định: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức) với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn với kiến thức thì quản lý là một khoa học”. Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc: Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức [4, tr.9]. Các tác giả còn phân định rõ hơn về hoạt động quản lý như: Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ

chức bằng cách vận dụng các hoạt động kế hoạch hóa, tổ chức, lãnh đạo chỉ đạo và kiểm tra [4, tr.9]. Theo tác giả Phạm Viết Vượng: Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý, nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan [27, tr.40]. Các tác giả Bùi Minh Hiền - Nguyễn Vũ Bích Hiền cho rằng “quản lý là hoạt động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra [12, tr.12].

Tóm lại, các khái niệm trên về “quản lý” được trình bày khác nhau về cách diễn đạt, ngôn từ, song chúng có đặc điểm chủ yếu, đó là: Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích (tác động có tổ chức, có mục đích) của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng các chế định xã hội, bằng tổ chức nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, phẩm chất, uy tín của người quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, cơ hội của tổ chức để đạt được mục đích trong điều kiện môi trường luôn luôn biến động; hoạt động tổ chức được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội, hoạt động quản lý phải phù hợp với quy luật khách quan; đây là những tác động phối hợp, nỗ lực của các cá nhân nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức. Từ sự phân tích trên, theo tôi quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức, thông qua công cụ và phương pháp quản lý nhằm làm cho tổ chức đó vận hành thuận lợi và đạt mục tiêu đề ra.

1.2.2. Văn hóa, văn hóa dân tộc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

1.2.2.1. Khái niệm Văn hóa

Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.

Quản lý hoạt động giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc cho học sinh các trường trung học cơ sở huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai - 3

Từ tương ứng với văn hóa theo ngôn ngữ của phương Tây có nguồn gốc từ các dạng của động từ Latin colere là colo, colui, cultus với hai nghĩa: (1) giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; (2) cầu cúng. Từ văn hóa trong tiếng

Việt là từ gốc Nhật, người Nhật dùng từ này để định nghĩa cách gọi văn hóa theo phương tây.

Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh... Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận... Vì thế chúng ta nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa.

Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất.

Văn hóa liên kết với sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản phẩm của người thông minh (Homo sapiens). Trong quá trình phát triển, tác động sinh học hay bản năng dần dần giảm bớt khi loài người đạt được trí thông minh để định dạng môi trường tự nhiên cho chính mình. Đến lúc này, bản tính con người không còn mang tính bản năng mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc định hình thế giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người dựa vào văn hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho sự sống còn của chủng loài mình. Con người có khả năng hình thành văn hóa và với tư cách là thành viên của một xã hội, con người tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có chung một văn hóa giúp xác định nhóm người hay xã hội mà các cá thể là thành viên.

Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp tại thủ đô Venise

- Áo năm 1970 do UNESSCO đưa ra định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động” [14, tr.5].

Ở Việt Nam cũng có nhiều các định nghĩa về văn hóa, trong đó có một số định nghĩa được quan tâm, sử dụng nhiều như: Trong “Việt Nam văn hóa sử cương” năm 1938, Giáo sư Đào Duy Anh đã đưa ra quan niệm về văn hóa: “Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người, cho nên ta có thể nói rằng: Văn hóa tức là sinh hoạt” [1, tr.13].

Vào năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu ra một định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật; những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ các sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn” [15, tr.431].

Năm 1995, tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn giáo trình “Cơ sở Văn hóa Việt Nam” đã định nghĩa Văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [24, tr.26].

Tác giả Phan Ngọc định nghĩa: “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của cá nhân hay tộc người khác” [19, tr.19 - 20].

1.2.2.2. Văn hóa dân tộc

Theo Federico Mayor: Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho một dân tộc này khác với một dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động. (Khái niệm này được cộng đồng quốc tế chấp nhận và phê chuẩn năm 1982).

Ở Việt Nam, văn hóa của dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa, hai cấp độ khác nhau: Ở phạm vi hẹp, văn hóa của dân tộc đồng nghĩa với văn hóa của một tộc người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người là một phạm vi của văn hóa nói chung. Phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa chung của cả cộng đồng người sống trong cùng một quốc gia. Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như những quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ của một tộc người, phản ánh những nhận thức, tâm lý, tình cảm, tập quán riêng biệt được hình thành trong lịch sử của tộc người đó. Ở các quốc gia đa dân tộc, văn hóa các tộc người đan xen, hấp thụ lẫn nhau nên nét chung của văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc, và mỗi nền văn hóa đều có những giá trị riêng của nó.

Theo Phạm Văn Đồng: “Cốt lõi của sức sống đó là văn hóa với ý nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả một hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sức nhạy cảm tiếp thụ cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản lĩnh và bản sắc của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để tự bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh…” [9, tr.18].

Hệ giá trị văn hóa dân tộc là bản sắc văn hóa dân tộc, do cộng đồng các dân tộc sáng tạo nên, được sàng lọc và tích lũy trong chiều dài lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, kết tinh trí tuệ và tình cảm, quan niệm đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ của dân tộc. Có thể hiểu, văn hóa thực chất là sự hoàn thiện và vận dụng bản sắc dân tộc vào quá trình xây dựng và phát triển xã hội.

Như vậy, văn hóa dân tộc là những bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc do cộng đồng dân tộc đó sáng tạo nên, được sàng lọc và tích lũy trong chiều dài lịch sử, là dấu ấn cộng đồng được ghi lại, được lưu truyền vào những phong tục tập quán, nghi lễ, tôn giáo, cách ứng xử, các mối quan hệ và cả ở những công trình hay các sản phẩm vật chất, cũng như các tác phẩm nghệ thuật do chính con người ở cộng đồng hay dân tộc đó sáng tạo ra trong những giai đoạn lịch sử khác nhau và nó chứa những tố chất đặc sắc, tạo nên nét riêng của mỗi dân tộc.

1.2.3. Truyền thống, truyền thống văn hóa dân tộc

1.2.3.1. Truyền thống

"Truyền thống", theo gốc từ Latinh được viết là "Tradio", gồm động từ "Tradere (traditus) nguyên nghĩa của nó là "truyền lại", "nhường lại", "giao lại" và "phân phát". Do vậy, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất của từ này, truyền thống là sự kế thừa di sản xã hội có giá trị được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Theo tác giả Trần Văn Giàu, truyền thống là những đức tính hay những thói tục kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và hiện có nhiều tác dụng, tác dụng đó có thể tích cực, cũng có thể tiêu cực; với cách tiếp cận tổng quát, Nguyễn Trọng Chuẩn cho rằng: Theo nghĩa tổng quát nhất, truyền thống - đó là những yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục, tập quán, thói quen, lối sống và cách ứng xử của một cộng đồng người được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ lâu dài [10, tr.587].

Nhìn chung, các quan niệm về truyền thống tuy có những điểm khác nhau, nhưng chúng đều thống nhất chỉ ra những đặc trưng cơ bản của truyền thống, đó là: tính cộng đồng, tính tương đối ổn định, tính lịch sử, tính trao truyền giữa các thế hệ người. Trên cơ sở khái quát đó chúng tôi cho rằng: Truyền thống là những tập tục, thói quen, thế ứng xử của một cộng đồng được hình thành, tích lũy trong lịch sử và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, chi phối tư duy và hành động của con người trong cộng đồng đó.

1.2.3.2. Truyền thống văn hóa dân tộc

Nền văn hóa được truyền lại được gọi là truyền thống văn hóa. Như vậy, truyền thống văn hóa dân tộc chính là những giá trị văn hóa của dân tộc được truyền lại dưới nhiều hình thức và thường xuyên làm giàu thêm, trau dồi thêm theo quy luật của nó.

Tiến trình lịch sử phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam cho thấy các giá trị văn hóa của từng tộc người không phải ngẫu nhiên được hình thành mà đó là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh địa lý, lịch sử và chính trị. Các giá trị

cốt lõi của văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Bản sắc văn hóa dân tộc của Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam.

Tóm lại, truyền thống văn hóa dân tộc là một khái niệm không dễ xác nhận, bởi vì truyền thống hay bản sắc văn hóa dân tộc có nhiều lớp khái niệm với nhiều tầng nội hàm khác nhau. Song chúng ta có thể khẳng định rằng, bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống giá trị truyền thống, thẩm mỹ và lối sống của dân tộc tạo thành những đặc trưng tiêu biểu, tiến bộ, riêng biệt, không thể trộng lẫn nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác. Truyền thống văn hóa của dân tộc biểu hiện cho sức sống, sự sáng tạo, phát triển của dân tộc đó. Trong khuân khổ của luận văn này, truyền thống văn hóa dân tộc (còn được hiểu là bản sắc văn hóa dân tộc) được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, chủ yếu là những đặc trưng tiêu biểu, tiến bộ, riêng biệt của các dân tộc thiểu số.

1.2.4. Giáo dục, giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc cho học sinh

1.2.4.1. Giáo dục

Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học, và giáo dục đại học.

Trong tiếng Việt, "giáo" có nghĩa là dạy, "dục" có nghĩa là nuôi (không dùng một mình); "giáo dục" là dạy dỗ gây nuôi đủ cả trí - dục, đức - dục, thể - dục.

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 08/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí