Đảm Bảo Sự Thống Nhất Giữa Truyền Thống Với Hiện Đại, Kế Thừa Với Đổi Mới Trong Giáo Dục Giá Trị Văn Hóa Tinh Thần Truyền Thống Dân Tộc Cho


Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng nhấn mạnh “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học” [21]. Hệ thống các phương pháp dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm là kết quả của sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, thực nghiệm ở nhà trường Việt Nam từ nhiều năm. Thầy và trò - cả hai chủ thể này đều chủ động, tích cực bằng hoạt động của mình hướng tới tri thức. Thầy giữ vai trò chủ đạo, tổ chức điều khiển hoạt động nhận thức của trò. Trò thì hoạt động tích cực chiếm lĩnh tri thức và biến nó thành vốn hiểu biết của mình để tiếp tục hoạt động nhận thức và hành động thực tiễn. Phương pháp lấy hoạt động của SV làm trung tâm là sự tổng hợp, tích hợp của nhiều phương pháp gần gũi nhau như: phương pháp tích cực, phương pháp hợp tác, phương pháp học bằng hành động, phương pháp tình huống, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề... Phương pháp này có đặc trưng cơ bản: SV tự tìm hiểu kiến thức, tự thể hiện, tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh hoạt động nhận thức của mình, hợp tác với bạn, học bạn; giảng viên tổ chức và hướng dẫn quá trình dạy - học. Vai trò đó thể hiện rõ ở yêu cầu của giáo dục GTVH tinh thần TTDT cần đặt SV vào hoàn cảnh, gần với thực tiễn hơn để SV tự tìm kiếm, tự thể hiện mình.

Tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giảng viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp truyền thống. Cụ thể hơn, vai trò của giảng viên là dẫn dắt, định hướng, gợi mở cho SV tiếp cận với tri thức mới; kiểm tra, uốn nắn SV trong quá trình học tập và rèn luyện; tổ chức cho SV tham gia các hoạt động học tập dưới nhiều hình thức. Như vậy, giảng viên vẫn là người quyết định đến chất lượng dạy của mình và học tập của SV. Điều 15, Luật Giáo dục của nước ta cũng đã xác định vai trò của người thầy “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục” [58, tr.15]. Đúng như nhà giáo dục Nga K.Đ.Usinxki đã ví “Không có một sách giáo khoa, một lời khuyên răn nào, một hình phạt, một khen thưởng nào có thể thay thế ảnh hưởng của người thầy giáo đối với học sinh” [73, tr.63].


4.1.2. Đảm bảo sự thống nhất giữa truyền thống với hiện đại, kế thừa với đổi mới trong giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc cho sinh viên

Gắn truyền thống với hiện đại, kế thừa với đổi mới, kế thừa trên cơ sở đổi mới và đổi mới trên cơ sở kế thừa chính là biện chứng của sự phát triển. Một trong những hạn chế, bất cập của giáo dục cao đẳng, đại học nước ta trong những năm qua là chưa phát huy tốt các giá trị truyền thống, đồng thời chưa tiếp thu được đầy đủ và kịp thời những thành tựu giáo dục và đào tạo của thế giới. Nghĩa là, chưa kết hợp tốt yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại trong giáo dục - đào tạo đại học.

Vấn đề kết hợp, tự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại là tự nó, do nó, chịu tác động của quy luật khách quan trong quá trình hình thành và phát triển xã hội. Theo Lê nin, quá trình lao động đã làm tăng dần ý thức hệ và chính ý thức hệ của con người lại tác động vào điều kiện tự nhiên một cách có chủ ý, có hệ thống. Tương tự với biện chứng như vậy, mỗi SV sẽ đóng vai trò là những phân tử tương tác, phản ứng trực tiếp để có hệ quả sau một khoảng thời gian sẽ chuyển hóa thành chất mới trong nhân cách. Với vai trò định hướng kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giáo dục cần có phương pháp thích hợp để không vi phạm tính quy luật khách quan, nhưng lại là nhân tố xúc tác thúc đẩy nhanh quá trình tạo thành một Chất mới nhân cách sinh viên truyền thống và hiện đại.

Tại hội nghị lần thứ năm ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta nhấn mạnh: Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh trên thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Vì vậy, các GTVH tinh thần TTDT muốn tồn tại và phát triển nhất thiết phải được đổi mới, phải mang hơi thở thời đại, phải gắn với thực tiễn đầy biến động. Đổi mới không phải để xa cội nguồn dân tộc mà là làm cho các GTVH tinh thần TTDT, tiếp tục được tỏa sáng, thấm sâu vào đời sống xã hội, góp phần tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội; làm cho


các giá trị đó đứng vững, đủ sức đề kháng với những biến đổi phức tạp, khó lường trong thế giới ngày nay. SV cần phải có cái nhìn vào thực tại và tầm nhìn ở tương lai, cần nhận thức được Phát huy là ta sẽ làm tốt hơn, nhân rộng hơn những gì đã được khẳng định là đúng đắn, hợp lý và SV cần phải có được điểm này trong và sau khi được giáo dục về GTVH tinh thần TTDT.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Cần đảm bảo tính thống nhất giữa truyền thống và hiện đại bởi xuất phát từ yêu cầu xây dựng nhân cách con người Việt Nam “Về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ” [20, tr.126]. Việc bảo đảm tính thống nhất giữa truyền thống với hiện đại, giữa kế thừa với đổi mới trong giáo dục GTVH tinh thần TTDT để góp phần hình thành NCSV phát triển toàn diện “đạo đức, học tập, thể lực, tình nguyện, sáng tạo”, “Sinh viên 5 tốt”; “Sinh viên Việt Nam học tập và làm theo lời Bác như Đại hội đại biểu toàn quốc Hội SV Việt Nam lần thứ IX (nhiệm kỳ 2013 - 2018) đã đề ra.

4.1.3. Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam hiện nay là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó nhà trường giữ vai trò hết sức quan trọng

Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay - 15

Đảng ta đã khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Trong đó giáo dục cao đẳng, đại học là một khâu trọng yếu, đảm nhận sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho đất nước, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay. Vì vậy, giáo dục cao đẳng, đại học Việt Nam cần lập chiến lược đào tạo phù hợp để tạo được môi trường tích cực quy tụ và phát triển nhân tài cho đất nước. Từ đó, xác định rõ mục tiêu đào tạo những trí thức với bản lĩnh của người Việt Nam, xem bản lĩnh văn hóa truyền thống dân tộc là hạt nhân cơ bản, duy lý xuyên suốt quá trình đào tạo tại các trường cao đẳng, đại học. Các trường cao đẳng, đại học phải nhận phần lớn trách nhiệm là nơi đào tạo, tôi luyện và phát triển nhân tài cho đất nước, để những tinh hoa của


văn hóa, tinh thần truyền thống dân tộc Việt Nam không bị hòa tan mà còn có cơ hội quảng bá, phát triển ra thế giới.

Trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách và chiến lược phát triển giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước, các trường cao đẳng, đại học chủ động tổ chức, triển khai thực hiện quá trình giáo dục SV để đạt mục tiêu đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, giữ gìn, phát huy các GTVH tinh thần TTDT, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong nhà trường, ngoài trách nhiệm của đảng ủy, ban giám hiệu thì đoàn thanh niên, hội sinh viên cũng có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là thông qua các phong trào có tính chất chính trị, xã hội để giáo dục GTVH tinh thần TTDT cho SV.

Quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về xã hội hóa giáo dục là hiện thực hóa mối liên hệ có tính phổ biến, có tính quy luật giữa các chủ thể giáo dục. Thiết lập được mối quan hệ này là làm cho giáo dục phát triển phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội. Yêu cầu của xã hội hóa giáo dục chính là xã hội hóa trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân đối với giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục nói chung, giáo dục GTVH tinh thần TTDT nói riêng phải trở thành hoạt động sâu rộng trong toàn xã hội. Mọi công dân, mọi tổ chức kinh tế xã hội, phải có trách nhiệm tích cực tham gia vào công tác này.

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VỚI VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

4.2.1. Đa dạng hóa phương thức giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam hiện nay

Đa dạng hóa phương thức giáo dục nhằm tăng tính hấp dẫn, dễ tiếp thu nội dung, gần gũi với giới trẻ, thu hút sự quan tâm của SV, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục GTVT tinh thần TTDT.


Thứ nhất, giáo dục GTVT tinh thần TTDT thông qua các môn học và các hình thức nghiên cứu khoa học trong nhà trường.

Ở đây có thể nhận thấy mối quan hệ tương tác đa chiều giữa giáo dục GTVT tinh thần TTDT với các môn học khác nhau trong việc hình thành, phát triển nhân cách SV. Chẳng có một thành quả khoa học nào mà không có sự kế thừa phát triển, chẳng có môn học nào thuần túy chuyên môn và xa rời giáo dục nhân cách người học, chẳng có một lý thuyết nào, kể cả về tự nhiên, kỹ thuật lại không có liên quan đến thực tiễn, lịch sử và con người.

Học làm người là học về thế giới, trong đó có thế giới tự nhiên và thế giới con người, để mỗi cá nhân nhận thức được vị trí của mình ở trong đó, nhận thức hết các tương tác giữa cá nhân mình với những người khác, để triển khai mọi tiềm năng của mình, để hoàn thiện mình và đồng thời làm cho thế giới xung quanh trở nên một nơi an toàn hơn, thân thiện hơn cho cuộc sống [9].

Thông qua các môn học khác nhau, SV sẽ có cách nhìn toàn diện về thực tiễn, lịch sử và con người Việt Nam hơn, GTVT tinh thần TTDT Việt Nam qua lăng kính tri thức toàn diện sẽ trở lên sâu sắc hơn. Thực hiện đa dạng hóa phương thức giáo dục nhân cách cho SV đối với các môn học có nội dung tích hợp về GTVT tinh thần TTDT là một trong những biện pháp quan trọng. Vấn đề ở đây là cả thầy và trò cần phải có quan điểm, thái độ đúng đắn về giáo dục toàn diện, “dạy chữ, dạy người”, “học chữ, học làm người”; chống quan điểm đề cao lợi ích thái quá, sùng bái kinh tế xã hội phương Tây, nhìn nhận sai lệch, thậm chí tiêu cực về giáo dục truyền thống và nhân cách, xem giáo dục truyền thống, nhân cách là công việc của người khác, bản thân giảng viên chỉ chú trọng kiến thức chuyên môn.

Nghiên cứu khoa học nói chung và các đề tài khoa học về GTVT tinh thần TTDT nói riêng sẽ giúp SV nắm vững và sử dụng tốt kỹ năng nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó, SV tiếp tục phát huy các GTVT tinh thần TTDT, nhất là truyền thống hiếu học hay đức tính cần cù, khiêm tốn, giản dị, trung


thực, lạc quan. Qua đó, giúp SV tự tin, nuôi dưỡng khát vọng chinh phục, ý thức được các giá trị sống và không ngừng nỗ lực vươn lên.

Thứ hai, giáo dục GTVT tinh thần TTDT thông qua các hoạt động ngoại khóa cho sinh viên.

Hoạt động ngoại khóa là các hoạt động nằm ngoài chương trình học chính khóa có ý nghĩa bổ trợ cho việc học chính khóa của SV. Hoạt động ngoại khóa đóng một vai trò quan trọng trong việc bổ sung các kĩ năng và kinh nghiệm sống cho SV, giúp SV trở thành một con người toàn diện và cuộc sống sẽ trở nên thú vị hơn. Hoạt động ngoại khóa chính là cơ hội để mỗi SV thể hiện con người và những điểm mạnh của mình. Qua các hoạt động ngoại khóa việc dạy và học sẽ có cơ sở thực tế hơn, tạo hưng phấn cho SV trong giờ chính khoá, vốn sống, vốn hiểu biết của SV được mở rộng. Đối với giảng viên, giờ ngoại khoá giúp họ hiểu rõ hơn SV của mình, phát hiện được khả năng của các em, từ đó mà điều chỉnh phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Hơn nữa, giảng viên cũng có thêm kiến thức thực tế để bài giảng phong phú, chất lượng hơn. Vì thế, giáo dục GTVT tinh thần TTDT thông qua các hoạt động ngoại khóa tìm hiểu thực tế là rất hữu ích. Hoạt động ngoại khóa nhằm nghiên cứu, tìm hiểu về những GTVT tinh thần TTDT có phạm vi rất rộng. Từ tiếp cận, nghiên cứu, tìm hiểu tư liệu trong các bảo tàng, nghe báo cáo chuyên đề khoa học, thăm các di tích lịch sử văn hóa cho đến tổ chức dã ngoại tìm hiểu cuộc sống sinh hoạt của người dân ở các vùng miền... Qua đó giúp SV phát triển óc sáng tạo, năng động hoạt bát, kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm và trình bày ý tưởng. Đồng thời giúp SV hoàn thiện những tri thức đã được học trên lớp, nâng cao nhận thức, ý thức, tình cảm, trách nhiệm, niềm tin vào cuộc sống và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Hoạt động ngoại khóa ra ngoài nhà trường thường kèm theo điều kiện kinh phí tổ chức, đó là khó khăn đặt ra. Điều này có phần đúng, vì thực tế kinh phí các trường dành cho phần hoạt động này quá eo hẹp. Tuy nhiên, nếu đổ lỗi cho hoàn cảnh là không công bằng. Nếu biết khai thác các nguồn lực,


thực hiện xã hội hóa, cách thức tổ chức hợp lý sẽ thu hút được sự quan tâm của SV. Ngày nay, các loại băng đĩa về thông tin khoa học, các phần mềm giáo dục khá nhiều, người thầy hoàn toàn có thể làm sinh động hóa bài giảng cho SV, đó chính là nhân tố tạo nên chất lượng giáo dục.

Thứ ba, giáo dục trong sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Lý luận cũng như thực tiễn chỉ cho chúng ta thấy rằng, sự thống nhất,

tác động giáo dục từ nhà trường, gia đình và xã hội được xem là vấn đề có tính nguyên tắc, đảm bảo cho mọi hoạt động giáo dục đạt hiệu quả cao. Toàn bộ công tác giáo dục thế hệ trẻ được xem xét và thực hiện như một bộ phận của quá trình xã hội tổng thể. Trong đó mỗi bộ phận trong cơ cấu xã hội đều phải thực hiện tốt các chức năng giáo dục phù hợp với đặc điểm và sở trường của mình. Đối với giáo dục GTVH tinh thần TTDT nhằm đến một hiệu quả tác động tích cực trong hình thành, phát triển nhân cách SV đặt ra yêu cầu cần thiết phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.

Giáo dục nhà trường với chức năng cơ bản là truyền thụ tri thức văn hóa, mở mang trí tuệ cho SV. Nhờ đó mà thế giới quan khoa học và nhân sinh quan của SV được hình thành và phát triển một cách bền vững. Để nâng cao hiệu quả giáo dục GTVH tinh thần TTDT cho SV, trước hết cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa đảng ủy, ban giám hiệu và các bộ phận chức năng trong trường; thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục; phát huy vai trò của người thầy và nâng cao ý thức tự giáo dục của sinh viên.

Trong mục 3.1.1, “Nhân tố chủ quan tác động đến NCSV” đã xác định rõ vai trò của gia đình đối với quá trình hình thành và phát triển NCSV. Cần nhắc lại, trong môi trường giáo dục đại học, gia đình không thể theo dõi sâu sát việc học tập của con em họ như ở phổ thông. Tuy nhiên, sự quan tâm hay những hỗ trợ về mặt vật chất và tinh thần của gia đình đối với việc học tập của SV có ảnh hưởng sâu sắc đến tính tích cực học tập của họ.

Xã hội là môi trường giáo dục quan trọng, ngoài thời gian học tập trên giảng đường, mỗi SV cần tham gia tích cực vào quá trình xã hội hóa bản thân.


Xã hội cần tạo ra sức mạnh dư luận theo chiều hướng tích cực để SV có thái độ sống phù hợp, có ích, biết chia sẻ, chung sức cùng cộng đồng trong các hoạt động tập thể, đoàn kết và phấn đấu xây dựng nếp sống văn hóa, lành mạnh, chống lại những biểu hiện tiêu cực, suy thoái đạo đức.

Muốn tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa ba môi trường, các trường cao đẳng, đại học cần phải phát huy vai trò trung tâm, tổ chức phối hợp dẫn dắt nội dung, phương pháp giáo dục GTVT tinh thần TTDT cho SV của gia đình và các lực lượng trong xã hội. Sự phối hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục trên, trước là để đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức cũng như hoạt động giáo dục cùng một hướng, một mục đích, một tác động tổ hợp, đồng tâm tạo sức mạnh thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách của SV, tránh sự tách rời mâu thuẫn, vô hiệu hóa lẫn nhau gây cho SV tâm trạng nghi ngờ, dao động trong việc lựa chọn, định hướng các giá trị tốt đẹp của nhân cách. Sự phối hợp gia đình, nhà trường, xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức. Vấn đề cơ bản hàng đầu là tất cả các lực lượng giáo dục phải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động tạo ra những mối quan hệ phối hợp vì mục tiêu giáo dục đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân hữu ích cho đất nước.

Thứ tư, giáo dục GTVT tinh thần TTDT thông qua các phương tiện truyền thông hiện đại và thông tin đại chúng.

Internet đang là kênh thông tin có sức bao phủ, tương tác trên diện rộng. Nhiều loại hình thông tin mới trên internet như các diễn đàn, blog, mạng xã hội…đã tác động nhiều chiều đến đời sống xã hội. Trong thời đại công nghệ thông tin, một tín hiệu có thể trong giây lát phát tán toàn cầu; những sự kiện “hót”, “giật gân” có thể lan truyền nhanh gấp bội các sự kiện cần truyên truyền. Theo kết quả nghiên cứu về thị trường internet Việt Nam năm 2011.

Internet đã vượt qua báo, tạp chí và radio để trở thành phương tiện tiếp cận thông tin phổ biến thứ hai, chỉ sau Tivi. Đối tượng sử dụng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/11/2022