Hoạt Động Dạy Học Môn Tiếng Việt Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Cho Học Sinh Các Trường Tiểu Học


vấn đề đặt ra cho các em trong cuộc sống từ đó giúp HS ngày càng phát triển hoàn thiện bản thân.

1.1.2. Phát triển năng lực học sinh

Đại tự điển Tiếng Việt Nguyễn Như Ý chủ biên: “Phát triển là biến đổi hoặc làm biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [68]. Lê Bá Hãn (1999), “Phát triển là quá trình vận động đi từ thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện” [29]. Như vậy có thể xác định: Phát triển là quá trình tăng trưởng về số lượng và biến đổi về chất của sự vật hiện tượng đã có, đã xây dựng nhưng chưa hoàn chỉnh, chưa đầy đủ được tiếp tục nâng cao để đáp ứng yêu cầu hiện thực khách quan. Với khái niệm phát triển như trên phát triển năng lực học sinh là quá trình tăng lên về số lượng và chất lượng năng lực của học sinh (năng lực chung và năng lực chuyên biệt)

- Về lượng: là tăng lên về số lượng các năng lực học sinh cụ thể cần thiết của học sinh phù hợp với điều kiện và hoạt động của học sinh.

- Về chất lượng: là tăng lên ở mức độ cao hơn, trình độ cao hơn của các năng lực cụ thể của học sinh đáp ứng yêu cầu điều kiện mới, giúp cho học sinh thích ứng tốt hơn và hoàn thành tốt hoạt động học tập cũng như các hoạt động khác trong nhà trường và ngoài xã hội.

Phát triển năng lực học sinh là kết quả của quá trình dạy học làm cho các các năng lực chung và năng lực đặc trưng cho từng môn học/lớp học/cấp học được hình thành, củng cố và hoàn thiện ở người học. Phát triển năng lực học sinh được thể hiện trên 3 phương diện: bề rộng và bề sâu chất lượng tri thức, thái độ và kĩ năng của năng lực và khả năng vận dụng tri thức, kĩ năng và thực tiễn [60].

Trong đề tài luận văn, phát triển năng lực học sinh cho học sinh thông qua dạy học môn Tiếng Việt trong nhà trường được nhấn mạnh ở góc độ phát triển về chất lượng năng lực học sinh. Ví dụ kĩ năng đọc ở lớp 4 tiểu học đọc thông chỉ cần “Đọc các văn bản nghệ thuật, khoa học, báo chí có độ dài khoảng 250 chữ, tốc độ 90-100 chữ/phút; Đọc thầm với tốc độ nhanh hơn lớp 3 (Khoảng 100-120 chữ/phút); Bước đầu biết đọc diễn cảm đoạn văn, đoạn thơ phù hợp với nội dung của từng đoạn” [33]. Ở lớp 5: “Đọc đúng là lưu loát các văn bản nghệ thuật (Thơ, văn xuôi, kịch), hành chính, khoa học, báo chí… có độ dài khỏang 200-300 chữ với


tốc độ 100-120 chữ/phút. Biết đọc thầm bằng mắt với tốc độ nhanh hơn lớp 4 (Khoảng 120-140 tiếng/phút); Biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ, trích đoạn kịch ngắn”. [33]

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

1.2. Hoạt động dạy học môn Tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh các trường tiểu học

1.2.1. Khái niệm hoạt động dạy học môn Tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực

Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh các trường tiểu học thành phố Gia Nghĩa tỉnh Đắk Nông - 3

1.2.1.1. Hoạt động dạy học

Theo tác giả Đặng Bá Lãm (2005), thì “dạy học là con đường tối ưu nhất giúp cho người học tiếp cận; nắm vững kinh nghiệm xã hội được phản ánh trong các khái niệm khoa học do loài người tích luỹ với sự tham gia điều chỉnh hợp lý về mặt tổ chức trong những khoản thời gian xác định họ đạt với mục đích do nhu cầu xã hội đặt ra với từng trình độ nhận thức tương ứng”[40]. Hoặc “Dạy học là phương tiện đem lại hiệu quả lớn lao trong việc phát triển hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ của người học” [40]. Như vây, dạy học là hoạt động nhận thức của HS dưới sự tổ chức, điều khiển của GV nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

Hoạt động dạy học là một hệ toàn vẹn gồm hoạt động dạy và hoạt động học luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau. Sự tương tác giữa dạy và học mang tính chất cộng tác, trong đó giảng dạy giữ vai trò chủ động, định hướng, hướng dẫn người học thực hiện tốt việc lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp [60]. Dạy học là hoạt động kép bao gồm dạy (do thầy đảm nhận) và học (do trò đảm nhận). Dạy và học có liên hệ tác động lẫn nhau không thể thiếu nhau, thầy giữ vai trò lãnh đạo, tổ chức điều khiển hoạt động của HS. HS giữ vai trò tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học của bản thân.

Từ phân tích ở trên, có thể khái quát: Dạy học là hoạt động dưới sự tổ chức, điều khiển, lãnh đạo của người GV làm cho HS tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức học tập của mình nhằm thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ dạy học.

Hoạt động dạy học là hoạt động trung tâm chi phối tất cả các hoạt động khác trong nhà trường. Hoạt động dạy học thực hiện các nhiệm vụ: làm cho HS nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ thống cơ bản, có những kỹ năng, kỹ xảo cần


thiết trong học tập, lao động và đời sống. Hoạt động này làm phát triển tư duy độc lập sáng tạo, hình thành những năng lực cơ bản về nhận thức và hành động của HS, hình thành ở HS thế giới quan khoa học, lòng yêu tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, đó chính là động cơ học tập trong nhà trường và định hướng hoạt động của HS.

1.2.1.2. Môn Tiếng Việt

Tiếng Việt là một môn học có đặc thù riêng, là bộ môn quan trọng trong nhà trường phổ thông nói chung, bậc tiểu học nói riêng. Nó là sự kết hợp hài hòa giữa tính khoa học và nghệ thuật. Bằng những hình tượng và ngôn từ phong phú sinh động của mình, môn học cung cấp cho người học những kiến thức về cuộc sống cũng như những điều bí ẩn trong tâm hồn con người, trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, nó tác động tới tâm tư, tình cảm và góp phần quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách, tâm hồn cho thế hệ trẻ. Hơn nữa, tuổi trẻ là lứa tuổi giàu cảm xúc, dễ rung động trước cái đẹp, môn tiếng Việt sẽ góp phần hướng tư duy HS đến Chân - Thiện - Mỹ, hình thành phẩm chất trong sáng của mỗi HS [63].

Văn học nói chung, tiếng Việt nói riêng là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, là cội nguồn đời sống và sự phản ánh chân thực chính nghệ thuật đời sống ấy, đồng thời là một hình thái quan niệm nhân sinh về xã hội. Tính đặc thù của văn học chính là ở chỗ nó là một hình thái phản ánh thẩm mỹ và bao giờ cũng cần tưởng tượng. Tính chất tưởng tượng hư cấu đem lại cho văn học những khả năng to lớn.

Văn học, tiếng Việt được coi là “trò diễn bằng ngôn từ” bởi nó mang tính hình tượng, tính biểu cảm sinh động, tính hàm súc đa nghĩa, tính cá thể hóa cao trong giảng dạy và tiếp nhận mà không một môn học nào có được. Tác phẩm văn học trở thành tín hiệu thẩm mỹ không chỉ mang đến thông tin mà còn bao hàm trong nó nhiều tầng nghĩa: tầng nghĩa trực tiếp, tầng nghĩa do hình dung tưởng tượng và tầng ý được tạo ra từ hai tầng nghĩa trên kết hợp với vốn sống riêng của mỗi cá nhân. Do đó, người học được coi là người đồng sáng tạo lên tác phẩm, thiếu người đọc thì hoạt động văn học chẳng khác gì một tiếng kêu vô vọng vang lên giữa cánh đồng hoang và mọc đầy cỏ dại. Mối quan hệ nhà văn - tác phẩm - thầy trò trong dạy học văn là mối quan hệ biện chứng. Người thầy văn học, tiếng Việt không chỉ được nói đến bên cạnh góc độ nghề nghiệp như các môn học khác, mà còn là một nhà phê bình văn học, mà cái khó ở đây là người thầy phải tìm được ý tưởng sâu xa, trừu


tượng, tiềm ẩn mà tác giả gửi gắm để truyền cảm trong văn học nghệ thuật, kích thích tính sáng tạo trong tư duy, tâm hồn HS ở mỗi thời đại, theo xu hướng, mục đích giáo dục [26].

1.2.1.3. Hoạt động dạy học môn Tiếng Việt

Hoạt động dạy học môn Tiếng Việt ở trường tiểu học bao gồm hoạt động dạy môn tiếng Việt của GV và hoạt động học môn tiếng Việt của HS.

Hoạt động dạy môn tiếng Việt của GV: đó là việc chuẩn bị lên kế hoạch giảng dạy môn tiếng Việt của GV. GV cần lên kế hoạch giảng dạy cho cả năm học, theo học kỳ và linh hoạt theo từng tuần. GV cần căn cứ yêu cầu cần đạt về chuẩn kiến thức kĩ năng của môn Tiếng Việt ở từng tiết dạy, tiến hành tổ chức các hoạt động kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, hình thành kiến thức, luyện tập thực hành, củng cố. Để đạt được mục tiêu đề ra, GV cần phối hợp các phương pháp, sử dụng phương tiện và quỹ thời gian một cách có hiệu quả [26].

Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn tiếng Việt của HS. Hiện nay, có các cách đánh giá như sau: đánh giá thường xuyên bằng nhận xét; đánh giá thông qua kiểm tra định kỳ cuối học kỳ và cuối năm học bằng các hình thức tự luận, trắc nghiệm khách quan; kết hợp với đánh giá của người dạy, cha mẹ HS với việc tự đánh giá của người học. Khi kiểm tra, đánh giá cần chú trọng cả kiến thức lý thuyết và thực hành đặc biệt là vận dụng vào những tình huống gắn với đời sống, phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.

Hoạt động học tập môn tiếng Việt của HS: là để tìm hiểu kiến thức hay luyện tập thực hành, HS có thể tham gia hoạt động nhóm, hoạt động cá nhân theo sự dẫn dắt, định hướng của GV và hoạt động tự học môn tiếng Việt của HS thông qua xây dựng kế hoạch tự học, nội dung, thời gian và nề nếp tự học; công tác tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập của bản thân.

Hoạt động dạy học môn tiếng Việt ở các trường tiểu học là những tác động của GV và HS trong việc truyền thụ và lĩnh hội những kiến thức của môn tiếng Việt, trên cơ sở đó củng cố nhận thức, góp phần hoàn thiện nhân cách cho HS. Nói cách khác, đây là hoạt động nhận thức của HS dưới sự tổ chức, điều khiển của GV dạy môn toán nhằm đạt được mục tiêu đề ra.


Từ khái niệm về hoạt động dạy học, phát triển năng lực học sinh, trong phạm vi luận văn có thể hiệu, hoạt động dạy học môn tiếng Việt theo hướng phát triển năng lực học sinh là quá trình tác động có mục đích kế hoạch của giáo viên tổ chức hoạt động học môn Tiếng Việt theo hướng phát triển năng lực học sinh để học sinh tiểu học tự mình hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhằm đạt được mục tiêu dạy học môn Tiếng Việt đã xác định và phát triển năng lực chung, chuyên biệt của học sinh tiểu học.

1.2.2. Đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh tiểu học

1.2.2.1. Sự phát triển của quá trình nhận thức

Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học tập ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như lao động tự phục vụ bản thân và gia đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa... Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập. Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định [8].

1.2.2.2. Sự phát triển nhân cách của HS tiểu học

Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn..

.Sau 5 năm học, “tính cách học đường” mới dần ổn định và bền vững ở trẻ. Nhìn chung việc hình thành nhân cách của HS tiểu học mang những đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân cách của các em lúc này còn


mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đang hình thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều, với HS tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình.

1.2.2.3. Đặc điểm hoạt động học tập của học sinh tiểu học

Hoạt động học tập là một hoạt động của đạo của học sinh tiểu học. Bước vào cấp Tiểu học, trẻ bắt đầu thực hiện “bước quá độ vĩ đại nhất” trong cuộc đời, chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Sự chuyển đổi này kéo theo một loạt những thay đổi khác trong cuộc sống đặt trẻ vào tình huống chưa từng gặp, dễ gây ra cuộc khủng hoảng trong sự phát triển của trẻ tại thời điểm đó và ảnh hưởng lâu dài với trẻ.

Trong hoạt động học tập của học sinh tiểu học, đối tượng chính là tri thức khoa học, được phản ánh thông qua các môn học, đó là các khái niệm khoa học, phổ thông, chính xác và hiện đại. Trước tuổi học, ở gia đình và cấp mầm non, trẻ đã lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm thông qua các trò chơi. Vì vậy, để tiến hành có hiệu quả hoạt động học tập, trẻ buộc phải có những phẩm chất, năng lực và hành vi mới mà trước đó trẻ chưa có. Ngoài ra, hoạt động học tập của học sinh tiểu học còn hướng vào việc lĩnh hội cách học; tiến hành theo một nguyên lý mới. Để thực hiện hoạt động này có hiệu quả, học sinh tiểu học phải hình thành được cách học, cách làm việc trí óc việc mà trước đây trẻ chưa thể có được.

Những đặc điểm của hoạt động học tập nêu trên đòi hỏi trẻ phải có những thay đổi căn bản về cách sống, cách thức hoạt động nhằm đáp ứng được những yêu cầu của việc học. Vì vậy, để đạt kết quả cao trong học tập, buộc trẻ phải thích ứng với môi trường nhà trường và hoạt động học.

1.2.2.4. Sự phát triển về sinh lí của HS Tiểu học

Hệ xương còn nhiều mô sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương tay đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hoá) nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,...Vì thế mà trong các hoạt động vui chơi của các em cha mẹ và thầy cô (sau đây xin gọi chung là các nhà giáo dục) cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới các hoạt


động vui chơi lành mạnh, an toàn. Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận động như chạy, nhảy, nô đùa,...Vì vậy mà các nhà giáo dục nên đưa các em vào các trò chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho trẻ. Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng. Do đó, các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ như đố vui trí tuệ, các cuộc thi trí tuệ... Dựa vào cơ sinh lý này mà các nhà giáo dục nên cuốn hút các em với các câu hỏi nhằm phát triển tư duy của các em. Để quản lý tốt hoạt động dạy học môn Tiếng Việt theo tiếp cận năng lực trong các trường tiểu học, nhà quản lý, hiệu trưởng cần phải nắm được những đặc điểm tâm, sinh lý của HS tiểu học nêu trên để lựa chọn các biện pháp dạy học, giáo dục môn Tiếng Việc theo tiếp cận năng lực phù hợp [8].

1.2.3. Thành tố của hoạt động dạy học môn Tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh các trường tiểu học

1.2.3.1. Mục tiêu dạy học môn Tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh các trường tiểu học

Theo Chương trình Giáo dục phổ thông năm 2018, môn Tiếng Việt ở cấp Tiểu học có 3 mục tiêu:

Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.

Thông qua việc dạy học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt; về tự nhiên, xã hội và con người; về văn hoá, văn học của người Việt Nam và nước ngoài.

Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt; góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho học sinh.

Mục tiêu môn Tiếng Việt nhằm hình thành và phát triển ở HS các kỹ năng như: nghe, nói, đọc viết; những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá và văn học của Việt Nam đồng thời qua đó góp phần rèn luyện cho HS các thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp, phán đoán...). Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc tiểu học. Bên cạnh việc học


toán để phát triển tư duy logic cho con, việc học TiếngViệt sẽ giúp các con hình và phát triển tư duy ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt, các con sẽ được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu cảm.

Ở bậc Tiểu học, tầm quan trọng của môn Tiếng Việt được thể hiện rõ rệt qua 2 giai đoạn:

* Giai đoạn 1: Các lớp 1, 2, 3

Đối với trẻ học lớp 1, 2, 3, nội dung của môn Tiếng Việt tập trung hình thành những cơ sở ban đầu cho việc học đọc, học viết; định hướng cho việc học nghe, học nói dựa trên vốn Tiếng Việt mà trẻ đã có. Các bài học ở giai đoạn này chủ yếu là bài học thực hành, được thấm vào HS một cách tự nhiên qua các bài học thực tế. Ví dụ, học âm “e”, sau đó viết con chữ “e”. Những tri thức về âm - chữ cái, về tiếng (âm tiết) - chữ, về thanh điệu - dấu ghi thanh đều được học qua những bài dạy chữ. Những tri thức về câu trong đoạn hội thoại (câu hỏi, đáp và dấu câu) cũng không được dạy qua bài lí thuyết mà HS được hình dung cụ thể trong một văn bản cụ thể.

Ở giai đoạn này, trẻ sẽ nhận diện được và sử dụng được các đơn vị của Tiếng Việt, các quy tắc sử dụng Tiếng Việt trong lúc đọc, viết, nghe, nói. Vậy nên, việc học Tiếng Việt ở bậc tiểu học sẽ tạo nền tảng cho trẻ trong việc phát triển tư duy ngôn ngữ, biểu hiện qua việc trẻ đọc thông thạo và hiểu đúng ý nghĩa một văn bản ngắn; viết rõ ràng, đúng chính tả; nghe chủ động; nói chủ động, rành mạch.

* Giai đoạn 2: Các lớp 4, 5

Về nội dung môn học, HS ở giai đoạn này đã được cung cấp những khái niệm cơ bản về một số đơn vị ngôn ngữ và quy tắc sử dụng Tiếng Việt làm nền móng cho việc phát triển kỹ năng. Bên cạnh những bài học thực hành (ở giai đoạn trước), HS được học các bài về trí thức Tiếng Việt (từ vựng, ngữ pháp, văn bản, phong cách,…). Những bài học này cũng không phải là lí thuyết đơn thuần, được tiếp nhận hoàn toàn bằng con đường tư duy trừu tượng, mà chủ yếu vẫn bằng con đường nhận diện, phát hiện trên những ngữ liệu đã đọc, viết, nghe, nói; rồi sau đó mới khái quát thành những khái niệm.

1.2.3.2. Nội dung dạy học môn Tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh các trường tiểu học

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 28/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí