Môn Tiếng Việt - Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Môn Tiếng Việt

mục tiêu, chương trình, nội dung dạy học, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, giáo viên, học sinh, kết quả dạy học.

* Mối quan hệ giữa dạy học và quản lý hoạt động dạy học

Để đạt được mục đích dạy học, người dạy và người học phải cộng tác trong việc phát huy các yếu tố chủ quan của họ (phẩm chất và năng lực cá nhân) nhằm xác định nội dung, lựa chọn phương pháp, tìm kiếm các hình thức, tận dụng các phương tiện và điều kiện, đánh giá các kết quả đạt được...

Các công việc trên của họ được thực hiện theo một kế hoạch, có sự tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá của chủ thể quản lý dạy học (Hiệu trưởng) cụ thể là:

- Chủ thể quản lý dạy học tác động đến người dạy và người học thông qua thực hiện các chức năng: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo kiểm tra.

- Người dạy cũng chịu sự tác động của chủ thể quản lý dạy học, vừa tự lập kế hoạch HĐDH, tự tổ chức việc dạy và học cho người học, tự chỉ đạo hoạt động dạy học của mình và hoạt động học của người học, đồng thời tự kiểm tra đánh giá kết quả dạy của mình và kết quả học của người học.

- Người học tự xây dựng kế hoạch, tự tổ chức, tự chỉ đạo và tự kiểm tra hoạt động học của mình theo kế hoạch, cách thức tổ chức, chỉ đạo và phương thức kiểm tra đánh giá của chủ thể quản lý dạy học và của người dạy.

- Được thể hiện rõ mối quan hệ giữa quản lý hoạt động dạy học với hoạt động học.

- Hoạt động dạy học luôn được đặt trong sự điều chỉnh của các yếu tố do chủ thể quản lý dạy học và các cấp tạo ra như: Chế định GD&ĐT dạy học, bộ máy TC&NL dạy học, nguồn TL&VL dạy học, môi trường dạy học và hệ thống thông tin dạy học nhưng vẫn đảm bảo nội hàm các thành tố cấu trúc của quá trình dạy học.

- Thể hiện rõ mối quan hệ quản lý giữa chủ thể quản lý dạy học với chủ thể dạy học và mối quan hệ cộng tác không tách rời nhau của chủ thể dạy học.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

- Nêu lên trách nhiệm của chủ thể quản lý dạy học, nhà giáo, cha mẹ học sinh, và học sinh đối với việc tạo lựa phương tiện để đạt được mục đích dạy học.

- Là tiền đề gợi ý cho các chủ thể quản lý dạy học đối với việc xây dựng các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý hoạt động dạy học.

Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh ở các trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên - 4

1.2.4. Môn Tiếng Việt - Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt

*Môn Tiếng Việt: Là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc tiểu học. Bên cạnh việc học Toán để phát triển tư duy logic cho con, việc học Tiếng Việt sẽ giúp các con hình thành và phát triển tư duy, ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt, các con sẽ được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu cảm.

*Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt: Là biện pháp, là cách thức giúp cho chủ thể quản lý đạt được mục tiêu giáo dục của mình đã đặt ra cho các đối tượng được quản lý đối với phân môn Tiếng Việt trong các trường tiểu học.

1.3. Trường tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân

1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ trường PTDT Bán trú tiểu học

Căn cứ Thông tư số:24/2010/TT-BGDĐT ngày 20 tháng 8 năm 2010 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc bán trú.

Trường Phổ thông dân tộc bán trú là trường chuyên biệt được nhà nước thành lập cho con em các dân tộc thiểu số, con em các gia đình định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được cấp có thẩm quyền cho phép ở lại trường để học tập trong tuần do không thể đi đến trường và trở về nhà trong ngày.

Nhiệm vụ của trường phổ thông dân tộc bán trú:

Trường PTDTBT thực hiện các nhiệm vụ quy định tại Điều lệ trường phổ thông và các nhiệm vụ sau:

Hằng năm đề xuất chỉ tiêu, lập kế hoạch và tham gia xét duyệt học sinh bán trú.

Giáo dục học sinh về chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, bản sắc văn hóa cà truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.

Tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục, lao động, văn hóa thể thao và tổ chức nuôi dưỡng phù hợp với học sinh bán trú.

1.3.2. Môn Tiếng Việt trong chương trình tiểu học

1.3.2.1. Khái quát chung về môn tiếng Việt trong trường tiểu học

a. Mục tiêu môn học:

Vấn đề tiêu dạy - học tiếng mẹ đẻ là vấn đề đã được bàn cãi nhiều, kể cả ở những nước tiếng mẹ đẻ đã có vị trí xứng đáng trong nhà trường phổ thông từ rất lâu như: Đức, Liên xô (trước đây). Do vậy mà việc xác định được mục tiêu của việc dạy học mới xác định được nội dung cần dạy. Xác định chưa đúng mục tiêu giáo dục mình cần đạt được thì việc dạy học sẽ không có kết quả.

Khi bàn về mục tiêu môn học người ta thường bàn đến ba vấn đề:

Giáo dưỡng (mặt nhận thức, là xác định những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mà môn học trang bị).

Phát triển: (phát triển tư duy) và giáo dục (giáo dục tư tưởng, tình cảm). Ba mặt này có sự gắn bó chặt chẽ với nhau.

Trong chương trình giáo dục phổ thông, mà trong đó đặc biệt là chương trình tiếng Việt phải góp phần thực hiện những mục tiêu chung, những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục tiểu học: đó là Giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên các bậc học tiếp theo.

Tiếp theo đó chương trình Tiếng Việt phải thực hiện được mục tiêu của môn học Tiếng Việt. Nói đến mục tiêu đặc trưng của môn học Tiếng Việt, trước đây người ta thường nói đến vấn đề thứ nhất là học để nắm kiến thức tiếng Việt (cấu tạo tiếng Việt, hệ thống tiếng Việt, gồm các kiểu đơn vị và quan hệ giữa chúng), Thứ hai là học để giao tiếp, giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, bằng bản ngữ của dân tộc.

Chương trình tiếng Việt mới đưa mục tiêu giao tiếp bằng tiếng Việt - hình hành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết lên làm tiêu chí ưu tiên. Những kiến thức về tiếng Việt cùng với các kiến thức về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn học cũng được cung cấp cho học sinh một cách sơ giản. Trong chương trình mới hoạt động giao tiếp vừa là mục đích số 1 vừa là phương tiện của dạy học Tiếng Việt chú trọng hơn đến kĩ năng sử dụng Tiếng Việt,

chương trình tiểu học mới ban hành (ban hành theo Quyết định số 16/2006/QĐ - BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ giáo dục và đào tạo) Xác định mục tiêu như sau:

Môn tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm:

1. Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.

Thông qua việc dạy học môn tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác về tư duy cho học sinh.

2. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt, về tự nhiên xã hội và con người; về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài.

3. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới cho học sinh.

b. Cấu trúc chương trình môn học:

Nội dung chương trình Tiếng Việt tiểu học gồm các bộ phận: Kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (Đọc, nói, nghe, viết), tri thức Tiếng Việt gồm (một số hiểu biết tối thiểu về ngữ âm, chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp...), tri thức về văn học xã hội và tự nhiên (một số hiểu biết tối thiểu về sáng tác văn học và cách tiếp cận chúng, về con người với đời sống tinh thần và vật chất của họ, về đất nước và dân tộc Việt Nam).

Ở bậc tiểu học tầm quan trọng của môn Tiếng Việt được thể hiện rõ rệt qua hai giai đoạn:

Giai đoạn 1: Các lớp 1, 2, 3

Đối với trẻ học lớp 1, 2, 3 nội dung của môn Tiếng Việt tập trung hình thành các cơ sở ban đầu cho việc học đọc, học viết, định hướng cho việc học nghe, học nói dựa trên vốn tiếng Việt mà trẻ đã có. các bài học ở giai đoạn này chủ yếu là bài học thực hành được thấm vào học sinh một cách tự nhiên qua những bài học thực tế.

Yêu cầu cơ bản đối với học sinh giai đoạn này là đọc thông thạo và hiểu đúng một văn bản ngắn, viết rõ ràng, đúng chính tả, nghe chủ động, nói chủ động, rành mạch.

Những bài học ở giai đoạn này chủ yếu là những bài học thực hành đọc, viết, nghe, nó. Tri thức tiếng Việt không được dạy thành bài riêng mà được rút ra từ những bài thực hành. Những tri thức về âm, chữ cái, tiếng (âm tiết) - chữ, thanh điệu - dấu ghi thanh đều được học qua những bài dạy chữ. Tri thức về câu trong hội thoại (câu hỏi - đáp và dấu câu) cũng không được dạy qua bài lý thuyết mà chúng được hình thành trong học sinh qua việc hình dung cụ thể thế nào là câu hỏi, câu đáp, và dấu biểu thị chúng trong một văn bản có thực. Ở giai đoạn này việc nắm tri thức của học sinh chỉ yêu cầu dừng ở mức nhận diện và sử dụng các đơn vị tiếng Việt, các quy tắc sử dụng tiếng Việt khi tiến hành hoạt động nghe, nói, đọc, viết.

Ở giai đoạn 2: (Lớp 4, 5), nội dung chương trình nhằm phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói ở một mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. trong đó yêu cầu đọc hiểu và viết một văn bản hoàn chỉnh được đặc biệt coi trọng.

Ở giai đoạn này học sinh đã bước đầu cung cấp những khái niệm cơ bản về một số đơn vị ngôn ngữ và quy tắc sử dụng Tiếng Việt làm nền móng vững chắc cho các kĩ năng Tiếng Việt. Bên cạnh những bài học thực hành (như ở giai đoạn trước, các em còn học những bài về tri thức tiếng Việt (ngữ pháp, văn bản, phong cách...) những bài học này không được trình bày dưới dạng lý thuyết đơn thuần, không phải được tiếp nhận hoàn toàn tư duy trìu tượng mà chủ yếu vẫn bằng cách nhận diện, phát hiện trên những ngữ liệu đã được đọc, viết, nghe, nói từ đó khái quát lên thành những khái niệm sơ giản ban đầu.

c. Nội dung môn học:

Chương trình giáo dục tiểu học mới mỗi năm 35 tuần lễ gồm 7 phân môn: Học vần, Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn.

Phân môn tập đọc rèn cho học sinh những kĩ năng đọc, nghe và nói. Thông qua hệ thống bài đọc qua chủ điểm và những câu hỏi tìm hiểu bài, ngoài ra còn cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con

người. Ngoài ra nó còn cung cấp vốn từ, tăng cường khả năng diễn đạt, trang bị một số hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học và góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh.

Phân môn chính tả: rèn các kĩ năng viết, nghe và đọc. Nhiệm vụ của học sinh là làm các bài tập chính tả: Đoạn, bài; chính tả về âm vần, các quy tắc chính tả về cách viết hoa. Ngoài tác dụng rèn kĩ năng viết, nghe, đọc cho học sinh các bài tập chính tả còn cung cấp cho học sinh vốn từ, vốn hiểu biết, và các kiến thức về khoa học xã hội và tự nhiên khác nhau trong cuộc sống.

Phân môn Luyện từ và câu: cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản, ban đầu về tiếng Việt và rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ, đặt câu, phân biệt các từ loại, và rèn kĩ năng đọc cho học sinh.

Phân môn Kể chuyện: đây là phân môn rèn các kĩ năng nói, nghe, và đọc. Học sinh được nghe kể, kể lại những câu chuyện vừa được học trong bài tập đọc; những câu chuyện được thầy, cô trực tiếp kể trên lớp hoặc được nghe, được đọc, được chứng kiến hoặc được tham gia trong thực tế cuộc sống hàng ngày. Từ đó khơi dậy sự tự giác tình yêu đọc sách, khuyến khích các em đọc sách phát triển óc quan sát và khả năng vận dụng cho học sinh.

Phân môn tập làm văn: Đây là phân môn rèn cho học sinh cả 4 kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Từ đó học sinh được dạy các nghi thức lời nói thông thường; Các kĩ năng viết thư, điền vào giấy tờ in sẵn, các kĩ năng kể chuyện, miêu tả, rèn khả năng quan sát, nhận biết, kĩ năng thuyết trình, trao đổi.

Phân môn học vần được học trong 24 tuần đầu của lớp 1. Học sinh được làm quen với chữ cái và dấu thanh, được học các âm vần mới.

Phân môn tập viết: Giúp cho việc rèn luyện năng lực phân tích, nhận biết, viết thạo. Nội dung dạy học tập viết được học ở lớp 1,2,3. Học sinh sẽ được học toàn bộ bảng chữ cái viết hoa, tiếp theo là các câu ca dao, thành ngữ, tục ngữ. Nội dung bài viết luôn đảm bảo tính kế thừa: Khi viết, học sinh có thể ôn lại kĩ năng viết các chữ đã luyện.

d. Hoạt động dạy môn Tiếng Việt của giáo viên:

Trong dạy học môn Tiếng Việt người thầy là chủ thể của việc giảng dạy. Hoạt động dạy của thầy là sự tổ chức, điều khiển hoạt động học, hoạt động

nhận thức của học sinh, điều khiển và hướng dẫn học sinh chủ động chiếm lĩnh nội dung dạy học, bằng cách đó mà học sinh phát triển tư duy và hình thành nhân cách.

Mục tiêu dạy học sẽ chi phối việc nhà quản lý và giáo viên sẽ lựa chọn dạy những gì thiết thực đối với học sinh. Môn tiếng Việt đòi hỏi sự chuẩn xác và khoa học của ngôn ngữ văn hóa, giáo dục cho học sinh văn hóa và những chuẩn mực giao tiếp, dạy cho các em biết dùng ngôn ngữ tiếng Việt để truyền đạt những tư tưởng, hiểu biết và những cảm xúc, tình cảm của mình một cách chính xác, đúng đắn và biểu cảm.

Trong nhà trường dạy học tiếng Việt phải được xem như là một công cụ giao tiếp và tư duy, nhằm trang bị cho học sinh một hệ thống các kĩ năng hoạt động, giao tiếp bằng tiếng Việt. Như vậy việc nghiên cứu hoạt động dạy học Tiếng Việt của giáo viên là phải trả lời các câu hỏi cụ thể như: Thầy lựa chọn những phương pháp dạy học nào, tại sao lại chọn chúng, thầy tổ chức những công việc của học sinh ra sao, giúp đỡ các em thế nào trong quá trình học tập, thầy kiểm tra việc nắm tri thức, kĩ năng của học sinh như thế nào, thầy xây dựng kế hoạch giúp đỡ học sinh yếu và bồi dưỡng học sinh giỏi ra sao?...

Hoạt động dạy môn Tiếng Việt của giáo viên trong trường tiểu học được thực hiện thông qua việc dạy học các phân môn Tập đọc, kể chuyện, Luyện từ và câu, chính tả, tập làm văn với nhiều bài tập mang tính tình huống, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên tạo ra những môi trường giao tiếp có chọn lọc để học sinh mở rộng vốn từ theo định hướng, trang bị những tri thức nền và phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp, trong đời sống và cụ thể là trong giờ học. Các hoạt động chủ yếu của giáo viên là:

- Giao việc cho học sinh: Hướng dẫn cho học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi, bài tập; Cho học sinh làm mẫu một phần câu hỏi, bài tập, tóm tắt nhiệm vụ và dặn dò học sinh.

- Kiểm tra học sinh: Xem học sinh có làm việc không, có hiểu việc mình phải làm không, giải đáp những thắc mắc và vướng mắc cho học sinh trong quá trình làm.

Tổ chức báo cáo kết quả làm việc: Báo cáo trực tiếp với giáo viên, báo cáo trong nhóm, báo cáo trước lớp với các biện pháp báo cáo bằng miệng, bằng phiếu học tập hoặc thi giữa các nhóm, trình bày cá nhân.

Tổ chức đánh giá: Tự đánh giá, đánh giá trong nhóm, đánh giá trước lớp với các biện pháp mà giáo viên sử dụng để đánh giá là khen, chê (định tính) hay cho điểm (định lượng).

e. Hoạt động học môn Tiếng Việt của học sinh: Hoạt động học tập của học sinh là hoạt động với đối tượng, trong đó học sinh là chủ thể, nội dung dạy học là đối tượng. Học chính là quá trình học sinh chủ động, tích cực, tự giác chiếm lĩnh nội dung dạy học để hình thành, phát triển nhân cách dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên.

Hoạt động học của học sinh bao gồm: tất cả những hoạt động cụ thể để chuẩn bị cho giờ học, hoạt động trong giờ học, tự học ở nhà, hoạt động ngoại khóa...

Dạy học Tiếng Việt là phải nghiên cứu, xem xét học sinh học tập như thế nào, các em làm việc ra sao, hoạt động trí tuệ diễn ra như thế nào, các em gặp khó khăn gì, vướng mắc những chỗ nào, mắc những lỗi gì và tại sao, các em hứng thú với cái gì và cái gì không hứng thú, số lượng, chất lượng và đặc điểm kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo tiếng Việt của các em như thế nào. Hoạt động của trò được tiến hành dưới sự điều khiển hướng dẫn của người giáo viên, hiệu quả hoạt động của học sinh chính là kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, những phẩm chất, nhân cách đạo đức mà các em đạt được trong quá trình học.

Trong quá trình học môn Tiếng Việt, học sinh phải thực hiện các hoạt động cụ thể là:

- Hoạt động giao tiếp (đây là hoạt động đặc trưng và mang tính chất đặc thù của môn Tiếng Việt).

- Hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành lý thuyết (cũng giống như các môn học khác người học phải có tư duy logic, trong quá trình học cần có sự phân tích, chắt lọc và tổng hợp nội dung kiến thức từ lý thuyết có sự vận dụng vào thực hành, thực tiễn một cách khoa học, linh động, sáng tạo).

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí