+ KN sử dụng lời nói trong diễn đạt, trình bày các vấn đề lịch sử được thể hiện dưới nhiều hình thức: thông báo, tường thuật, miêu tả, giải thích, minh họa bằng tư liệu lịch sử, tư liệu văn học. Kĩ năng diễn đạt nói của GV quyết định trực tiếp đến thành công của bài giảng lịch sử. Với ngôn ngữ rõ ràng, trong sáng, gợi cảm xúc, giàu hình ảnh, lời nói của GV sẽ dẫn dắt HS “trở về” với quá khứ của lịch sử, tạo được biểu tượng rõ ràng, cụ thể về một nhân vật, một biến cố, hiện tượng lịch sử, giúp các em biết hình dung, tưởng tượng, suy nghĩ, tìm tòi, hình thành khái niệm, hiểu được bản chất của sự vật, quy luật của quá trình phát triển lịch sử; từ đó tác động đến tư tưởng tình cảm, hình thành thái độ đúng đắn trong học tập và trong cuộc sống.
Rèn luyện KN diễn đạt nói giúp SV khắc phục được những nhược điểm, khuyết tật thường gặp như nói ngọng, nói lắp, nói nhanh, nói ngắt quãng, nói nhát gừng, nói nhịu... góp phần vào nâng cao hiệu quả bài học LS ở trường phổ thông.
+ Nếu ngôn ngữ nói là phương tiện chủ yếu trong giao tiếp giữa GV và HS thì bảng là công cụ không thể thiếu trong dạy học. Kết hợp chặt chẽ giữa lời giảng và ghi bảng của GV, sử dụng bảng hợp lý không chỉ giúp HS theo dõi và nắm được nội dung kiến thức một cách hệ thống mà còn tiết kiệm thời gian cho tiết học, phát triển ở HS tư duy tổng hợp nhanh, tái hiện vững chắc kiến thức, rèn luyện óc quan sát, ghi nhớ và hiểu sâu sắc kiến thức mới. Cách trình bày bảng của GV còn hình thành cho HS tính khoa học, tính chính xác trong nghệ thuật trình bày.
Ngoài chức năng là một phương tiện trình bày kiến thức, bảng đen còn được sử dụng để trình bày các loại đồ dùng trực quan như bản đồ, sơ đồ, niên biểu, hình minh họa…. Các đồ dùng trực quan làm tăng thêm sự sinh động, hấp dẫn của kiến thức LS đối với HS. Vì vậy, nếu SV nỗ lực, chăm chỉ tập luyện, có KN sử dụng bảng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả bài học trên cả ba phương diện: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Rèn luyện KN trình bày bảng giúp SV nhận thức rõ mục đích, ý nghĩa của việc sử dụng bảng đen, hình thành tư thế, tác phong đứng lớp chuẩn mực; cách viết bảng đẹp, khoa học, vẽ nhanh các hình ảnh trực quan trên bảng khi dạy học.
* Kĩ năng xây dựng và sử dụng các loại đồ dùng trực quan trong DHLS:
Lịch sử là những gì đã xảy ra trong quá khứ, không thể tái tạo lại trong phòng thí nghiệm. Trong học tập lịch sử, HS không được trực tiếp quan sát sự kiện, nên khó hình dung, tưởng tượng chân thực và đúng đắn về những gì đã xảy ra trong
quá khứ. Vì vậy, sử dụng đồ dùng trực quan là một trong những “nguyên tắc vàng” trong dạy học, có vai trò đặc biệt quan trọng góp phần tạo biểu tượng lịch sử cụ thể, giáo dục tư tưởng, tình cảm và phát triển năng lực cho HS. Tuy nhiên, không thể sử dụng tùy tiện mà phải căn cứ vào mục đích, nội dung kiến thức cụ thể của từng bài học trên cơ sở GV đã nắm vững lí luận và PPDH bộ môn.
Hình thành KN xây dựng và sử dụng các loại đồ dùng trực quan trong dạy học là một yêu cầu bắt buộc trong CTĐT GV môn Lịch sử tại Trường ĐHSPHN, giúp SV nhận thức được tầm quan trọng của các loại đồ dùng trực quan trong DHLS, nắm được các yêu cầu, biện pháp xây dựng và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng trực quan phổ biến như sơ đồ, niên biểu, đồ thị, biểu đồ, lược đồ LS....
* Kĩ năng sử dụng các loại phương tiện dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong DHLS:
Thế kỉ XXI là thế kỉ bùng nổ của khoa học – công nghệ, nó có tác động tới tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có giáo dục, đòi hỏi GV không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải có KN sử dụng các loại thiết bị, phương tiện kĩ thuật, ứng dụng CNTT vào dạy học. Đây là KN không thể thiếu của GV tất cả các môn học. Thiết bị, phương tiện dạy học vừa là điều kiện phục vụ cho việc giảng dạy, học tập, vừa là yếu tố kích thích tư duy sáng tạo, khả năng tìm tòi, nghiên cứu của GV và HS. Ngày nay các thiết bị, phương tiện dạy học rất phong phú, đa dạng hiện đại, đòi hỏi GV phải có KN sử dụng, khai thác chúng một cách hiệu quả. Điều này sẽ tránh được 2 hiện tượng phổ biến thường xảy ra, một là lạm dụng hoặc quá lệ thuộc vào phương tiện, thiết bị, hai là không muốn hoặc ngại sử dụng.
Ở trường PT, môn LS có nhiều loại thiết bị có thể sử dụng và có ưu điểm để ứng dụng CNTT trong dạy học, nên việc rèn luyện cho SV kĩ năng này là rất cần thiết. Nội dung rèn luyện giúp SV hiểu rõ vai trò, ý nghĩa của các phương tiện kĩ thuật được sử dụng trong dạy học, các hình thức, biện pháp sử dụng một số công cụ, thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng bộ môn (Bảng thông minh, máy chiếu, hệ thống âm thanh kĩ thuật số,..).
* Kĩ năng sử dụng SGK và các loại tài liệu tham khảo trong DHLS:
SGK là tài liệu cơ bản quan trọng đối với GV và HS trong DHLS. Kiến thức trong SGK là kiến thức cốt lõi nhất, phản ánh toàn diện, hệ thống về tiến trình phát triển hợp quy luật của LS nhân loại và LS dân tộc. Đối với GV, SGK là tài liệu
đáng tin cậy không thể thiếu trong giảng dạy, là điểm tựa để GV xác định kiến thức cơ bản cần cung cấp và hướng dẫn HS khai thác trong giờ học, là gợi ý để GV lựa chọn PPDH phù hợp với nội dung, đặc điểm và khả năng nhận thức của các em. Đối với HS, SGK là tài liệu học tập cơ bản, bắt buộc để các em tự học có hướng dẫn, là nguồn tài liệu chủ yếu giúp HS lĩnh hội kiến thức của bộ môn.
Vì vậy, trong hệ thống KNDH cần hình thành cho SV sư phạm LS, rèn luyện kĩ năng sử dụng SGK kết hợp với các nguồn tài liệu tham khảo là rất cần thiết. SV sẽ hiểu được vị trí, ý nghĩa của SGK; biết khai thác kiến thức cơ bản trong SGK để cung cấp, truyền thụ cho HS; biết hướng dẫn HS tự học qua SGK; biết sưu tầm, xây dựng và sử dụng hồ sơ tư liệu trong dạy học. Những tri thức trong SGK gắn bó với HS trong suốt quá trình học tập. Vì vậy, nếu GV có kĩ năng sử dụng SGK một cách nhuần nhuyễn sẽ góp phần phát triển năng lực tự học, tư duy lịch sử của HS.
* Kĩ năng tổ chức, điều khiển, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho HS trong DHLS:
- Kĩ năng sử dụng các PPDH và kĩ thật dạy học hiện đại để phát triển năng lực nhận thức lịch sử cho HS:
Nhiệm vụ quan trọng nhất của GV trong dạy học là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển, trọng tài, chuyên gia, bạn đồng hành của HS trong quá trình học tập. Để thực hiện tốt nhiemẹ vụ đó, GV phải có KN sử dụng đa dạng, linh hoạt các PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS như dạy học nêu vấn đề, dạy học dự án, dạy học theo chủ đề, dạy học liên môn, dạy học phân hóa, dạy học tích hợp, tổ chức hoạt động nhóm, trao đổi, thảo luận, tranh luận, đóng vai, hướng dẫn HS tự học trên lớp và ở nhà; biết vận dụng hợp lí một số kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học như kĩ thuật khăn trải bàn; kĩ thuật 3 -2 -1; kĩ thuật dạy học theo góc, dạy học theo trạm, dạy học kiến tạo… Đồng thời, cần kết hợp đa dạng các hình thức tổ chức dạy học trong giờ nội khóa (trên lớp, tại thực địa, nhà bảo tàng, di tích LS) và hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo [46; 195].
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một yêu cầu quan trọng của Chương trình GDPT mới, được ưu tiên dành nhiều thời lượng hơn. Các hoạt động giáo dục, dạy học được tổ chức theo phương thức trải nghiệm và sáng tạo để hình thành, phát triển năng lực và củng cố niềm tin vào các giá trị cho HS. Do đó, trong ĐTGV, khoa Lịch sử - Trường ĐHSPHN cần phải trang bị cho SV nguyên tắc, KN thiết kế,
tổ chức các hoạt động GD, DHLS theo phương thức trải nghiệm và sáng tạo. SV cần có KN hướng dẫn cho HS phổ thông các hoạt động trải nghiệm sáng tạo giống như KN làm GV chủ nhiệm. Nội dung và cách thức tổ chức sẽ tập trung vào một số hình thức cơ bản như: Hướng dẫn cho HS tập nghiên cứu khoa học LS, tổ chức các câu lạc bộ LS, các hoạt động tình nguyện, nhân đạo, tham gia các hoạt động công ích xã hội, tổ chức các hoạt động tìm hiểu ngành nghề truyền thống ở địa phương...
- Kĩ năng hướng dẫn HS tự học:
Trong QTDH, hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS là hai khâu của một quá trình thống nhất. Tự học là khâu rất quan trọng, một nhiệm vụ bắt buộc đối với HS để hoàn thành những nhiệm vụ được giao dưới sự giúp đỡ, tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra của GV; có thể diễn ra ở trên lớp hoặc ở nhà.
Trong tự học LS bên cạnh sự nỗ lực học tập độc lập, thông minh sáng tạo của HS thì các vấn đề phương hướng, nội dung, phương pháp, tiến trình, kết quả...một phần chủ yếu do GV quyết định và chịu trách nhiệm thực hiện theo chương trình, SGK. Có thể khẳng định vai trò của GV vô cùng quan trọng, do đó, SV sư phạm Lịch sử phải có KN hướng dẫn HS tự học, tránh việc HS bị động trong tiếp nhận kiến thức, có tâm lý chán nản, coi thường môn Lịch sử khi phải tự học một cách ép buộc. Nhận thức được tầm quan trọng của việc làm này, GV sẽ lựa chọn được những hình thức tự học phong phú, phù hợp với trình độ nhận thức và phát huy sự chủ động, sáng tạo của từng HS; trên cơ sở đó góp phần vào việc thực hiện mục tiêu của môn học, mục tiêu giáo dục và yêu cầu đổi mới PPDH Lịch sử ở nước ta hiện nay.
(3) Kĩ năng kiểm tra, đánh giá hoạt động nhận thức LS của HS
KN kiểm tra, đánh giá hoạt động nhận thức của HS là nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu trong quá trình DH của người GV Lịch sử, bao gồm: có nhận thức đúng về đổi mới cách thức kiểm tra, đánh giá; có KN đánh giá cơ bản trên cơ sở xác định tiêu chí đánh giá chuẩn và bộ công cụ đánh giá phù hợp với đối tượng nhận thức; sáng tạo các hình thức đánh giá đa dạng, kết hợp đánh giá quá trình với đánh giá kết quả trên quan điểm vì sự tiến bộ và phát triển của HS. Việc đánh giá đúng, trung thực của GV đối với HS không chỉ tác động mạnh mẽ đến thái độ, kết quả học tập mà còn tạo động lực cho các em phấn đấu, thông qua đó GV cũng đánh giá được khả năng giảng dạy của mình.
Quan điểm định hướng trong phát triển chương trình GDPT mới là đổi mới căn bản hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục, bảo
đảm trung thực, khách quan góp phần hướng dẫn, điều chỉnh cách học và cách dạy; Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kì, cuối năm học, đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học [46; 42]. Vì vậy, khoa Lịch sử (Trường ĐHSPHN) đã đổi mới cách kiểm tra, đánh giá tạo cơ hội cho SV trải nghiệm phương thức đánh giá tích cực, đồng thời quan tâm đào tạo cho SV kĩ năng kiểm tra, đánh giá theo định hướng nói trên.
Trước đây với triết lý dạy học là truyền thụ kiến thức, kĩ năng, phẩm chất cho người học nên KT - ĐG lấy nội dung kiến thức – kỹ năng người học được đào tạo làm chính. Ngày nay triết lý dạy học đã thay đổi theo hướng hình thành năng lực cho người học, do đó, nội dung KT-ĐG phải lấy năng lực người học được đào tạo làm chính. Cần xây dựng hệ thống các tiêu chí cụ thể, các tiêu chí này là nội dung cơ bản để đo mức độ hình thành kĩ năng đánh kết quả học tập lịch sử của HS. Cụ thể, một GV dạy lịch sử cần: hiểu rõ vai trò quan trọng của kiểm tra - đánh giá; biết phân biệt các công cụ, loại hình KT-ĐG; biết lựa chọn, sử dụng thành thạo các hình thức và phương pháp KT-ĐG đa dạng, phù hợp với điều kiện, năng lực của HS, từ đó sử dụng kết quả KT-ĐG để điều chỉnh hoạt động dạy học.
3.2. Những tiêu chí để đánh giá hệ thống kĩ năng dạy học của SV ngành sư phạm Lịch sử - Trường ĐHSPHN
3.2.1. Các yêu cầu khi xây dựng bộ tiêu chí đánh giá KNDH của SV sư phạm Lịch sử
Trên quan điểm tiếp cận hiện đại về QTDH và quá trình ĐTGV, chúng tôi đưa ra các nguyên tắc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá KNDH của SV ngành sư phạm LS - Trường ĐHSPHN:
* Tính thực tiễn: Các tiêu chí đánh giá KNDH phải có giá trị thực tiễn, được xây dựng trên có sở thực tiễn rèn luyện KN nghề nghiệp của SV sư phạm Lịch sử hiện nay; phải trở thành công cụ cho các nhà quản lí đánh giá KNDH của SV được đào tạo tại trường ĐHSPHN.
* Tính hiện đại: Các tiêu chí phải đảm bảo tính hiện đại, đánh giá được những KNDH của người GV Lịch sử đáp ứng được yêu cầu đổi mới toàn diện nền giáo dục phổ thông VN sau năm 2015.
* Tính toàn diện: Các tiêu chí phải đánh giá đầy đủ được các kĩ năng dạy học cơ bản của người GV môn Lịch sử, có thang đo cho từng mức độ hình thành kĩ năng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
* Tính thống nhất: Thể hiện ở sự thống nhất bên trong giữa các chỉ số trong cùng một tiêu chí và sự thống nhất giữa các tiêu chí với nhau (khi đánh giá một KNDH cụ thể).
* Tính khả thi, phù hợp với năng lực và trình độ của SV: KNDH được thể hiện ở nhiều mức độ: chưa có KN, đang hình thành KN, bước đầu có KN, kĩ năng hoàn thiện, sử dụng thành thạo kĩ năng. Cùng một KN nhưng mỗi cá nhân, mỗi trình độ nhận thức, tâm trạng tâm lý có mức độ hình thành khác nhau. Do đó, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá KNDH phải đảm bảo phù hợp với mọi đối tượng SV của khoa Lịch sử (đến từ các vùng miền khác nhau, dân tộc khác nhau). SV có năng lực giỏi, vốn tri thức lịch sử phong phú không chỉ có KN ở mức độ thành thạo mà có thể sáng tạo KN, sử dụng nhuần nhuyễn. Nhưng một số SV có năng lực trung bình, kiến thức LS còn hạn chế thì có thể đạt mức độ bước đầu có kĩ năng, dần dần hướng tới hoàn thiện kĩ năng. Vì vậy, xác định hệ thống tiêu chí đo KNDH cần căn cứ vào nhiều yếu tố, trong một số trường hợp giảng viên có thể dựa vào ngay những tín hiệu phản ứng tâm lí của SV khi trực tiếp hướng dẫn các em thực hành. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào năng lực sư phạm, sự nhạy cảm, tinh tế cũng như kinh nghiệm thực tiễn của mỗi GV
3.2.2. Hệ thống tiêu chí đánh giá kĩ năng dạy học của sinh viên sư phạm Lịch sử
- Trường ĐHSPHN
Chúng tôi đã xây dựng bảng tiêu chí đánh giá KNDH của SV ngành sư phạm Lịch sử trên ba mức độ: (1) SV chưa có KN hoặc đang hình thành KN. (2) SV bước đầu có KN hoàn chỉnh. (3) SV thành thạo KN. Mỗi mức độ là một tiêu chí cụ thể để GV và SV có thể tự đánh giá kết quả quá trình rèn luyện KN. Đây cũng là cơ sở để chúng tôi xây dựng bảng kiểm với các chỉ báo, tiến hành kiểm tra đầu vào – đầu ra trên nhóm SV thực nghiệm nhằm chứng mình tính khả thi của đề tài.
3.2.2.1. Nhóm kĩ năng chuẩn bị bài học Lịch sử
Tiêu chí đánh giá kĩ năng dạy học của sinh viên khoa Lịch sử - Trường ĐHSP Hà Nội | |||
Mức độ 1 (SV chưa có hoặc đang hình thành KN) Điểm: 0 - 4 | Mức độ 2 (SV bước đầu có KN hoàn chỉnh) Điểm: 5 - 7 | Mức độ 3 (SV thành thạo KN) Điểm: 8 - 10 | |
* Kĩ năng tìm hiểu đối tượng HS và phát triển chương trình giáo dục trong nhà trường | - SV chưa có KN: + Chưa có kiến thức, hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý, trình độ nhận thức của HS. + Chưa nghiên cứu hồ sơ học tập và tìm hiểu kết quả học tập môn Lịch sử của HS những năm học trước . - SV đang hình thành KN: + Biết tổ chức kiểm tra đầu năm học để tìm hiểu khả năng học tập, kết quả học tập môn Lịch sử những năm trước của HS. + Chưa phân tích được mối quan hệ giữa chương trình và SGK. | + Có kiến thức, hiểu biết về biết về đặc điểm tâm sinh lý, trình độ nhận thức của HS. + Biết nghiên cứu hồ sơ kết quả học tập môn Lịch sử của HS những năm trước + Biết tổ chức kiểm tra đầu năm học để tìm hiểu khả năng, nhu cầu, động cơ học tập của HS . + Biết sử dụng kết quả đã tìm hiểu được để xây dựng kế hoạch dạy học của môn học. + Biết phân tích và nhận xét về chương trình môn LS ở phổ thông. | + Chủ động đề xuất các biện pháp để thường xuyên cập nhật thông tin về tình hình học tập, nhu cầu, động cơ, thái độ của HS đối với môn học . + Biết phối hợp với đồng nghiệp, cha mẹ HS, các tổ chức Đoàn, Đội để thường xuyên thu thập thông tin về HS phục vụ cho việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch dạy học. + Thiết kế được chương trình môn học của một lớp sẽ được phụ trách ở trường PT. |
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Rèn Luyện Kĩ Năng Dạy Học Của Sv Khoa Lịch Sử
- Hệ Thống Kĩ Năng Dạy Học Môn Lịch Sử Ở Trường Phổ Thông
- Hệ Thống Kĩ Năng Dạy Học Cần Hình Thành Cho Sv Sư Phạm Lịch Sử
- Nhóm Kĩ Năng Thực Hiện Bài Học Lịch Sử:
- Kĩ Năng Đánh Giá Kết Quả Học Tập Lịch Sử Của Hs
- Những Nguyên Tắc Cần Đảm Bảo Khi Hình Thành Kndh Cho Sv Ngành Sư Phạm Lịch Sử - Trường Đhsphn
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
87
- SV chưa có KN: + Chưa tìm hiểu thông tin về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của nhà trường phục vụ cho môn học. + Không có hiểu biết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa LS địa phương nơi mình giảng dạy. - SV đang hình thành KN: + Đã tìm hiểu điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của nhà trường phục vụ cho môn Lịch sử. + Có phương pháp điều tra, thu thập thông tin để tìm hiểu về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa lịch sử của địa phương nơi mình giảng dạy. | + Biết tìm hiểu chính sách, yêu cầu của BGH nhà trường đối với môn LS để xây dựng kế hoạch dạy học. + Sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất của nhà trường để phục vụ môn học. + Biết thâm nhập thực tế tìm hiểu tình hình địa phương qua tiếp xúc với cán bộ chính quyền, đoàn thể và cha mẹ HS. + Biết vận dụng các phương pháp điều tra để đánh giá mức độ ảnh hưởng của nhà trường, gia đình, cộng đồng và phương tiện truyền thông đến việc học tập của HS. | + Sử dụng hiệu quả và sáng tạo trang thiết bị, cơ sở vật chất của nhà trường trong giảng dạy môn Lịch sử. + Chủ động thu thập và xử lí thông tin để thường xuyên cập nhật những thay đổi của môi trường giáo dục, địa phương nơi mình công tác. + Sử dụng trực tiếp, có hiệu quả những thông tin đó vào quá trình dạy học lịch sử. |
88