Định Hướng Dạy Học Lý Luận Chính Trị Ở Trường Cao Đẳng Sư Phạm Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục

Từ năm 2007 đến nay, Bộ GD&ĐT áp dụng Quy chế 43/2007 về đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. Nhìn chung, quy chế này là sự kết hợp của các quy chế trước với nhau. Điểm học phần được tính bằng 02 cách: hoặc căn cứ vào một phần như quy định trong. Quy chế 04/1999 và 31/2001 hoặc gồm tất cả các điểm đánh giá bộ phận như quy định trong Quy chế 25/2006. Khác với Quy chế 25, Quy chế 43/2007 quy định kỳ thi phụ được tổ chức nếu có điều kiện. Sự khác biệt nổi bật trong Quy chế này là cách tính điểm đánh giá bộ phận và điểm học phần (đảm bảo đánh giá được cả phần nổi và phần chìm). Trong đó, điểm đánh giá bộ phận và điểm thi kết thúc học phần được chấm theo thang điểm 10 (từ 0 đến 10), làm tròn đến một chữ số thập phân. Điểm học phần là tổng điểm của tất cả các điểm đánh giá bộ phận của học phần nhân với trọng số tương ứng. Điểm học phần hoàn chỉnh sau đó chuyển thành điểm chữ. Do đó, từ năm 2007, những sinh viên được đào tạo theo tín chỉ sẽ có điểm học phần là điểm chữ. Phương pháp đánh giá thành quả học tập gồm: một là đánh giá thường xuyên (formative assessment) - đó là các câu hỏi ngắn ngay tại lớp, các bài kiểm tra ngắn. Hai là đánh giá tổng kết (summative assessment) - yêu cầu phải kiểm tra cả phần đã được thuyết giảng ở lớp là phần nổi cùng với phần sinh viên tự đọc trong thời gian học tập thuộc phần chìm.

Kể từ ngày 1/1/2017, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhà nước toàn bộ lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp (trừ các trường sư phạm, các ngành đào tạo GV). Ngày 13/3/2017, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư 09/2017/TT-BLĐTBXH Quy định quy định việc tổ chức thực hiện chương trình đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng theo niên chế hoặc theo phương thức tích lũy mô-đun hoặc tín chỉ; quy chế kiểm tra, thi, xét công nhận tốt nghiệp. Việc KTĐG ở các ngành đào tạo ngoài sư phạm ở các trường đại học, cao đẳng sư phạm được áp dụng theo quy định trên. Theo đó, điểm môn học, mô-đun bao gồm điểm trung bình các điểm kiểm tra có trọng số 0,4 và điểm thi kết thúc môn học, mô -đun có trọng số 0,6;điểm trung bình điểm kiểm tra là trung bình cộng của các điểm kiểm tra thường xuyên, điểm kiểm tra định kỳ theo hệ số của từng loại điểm. Trong đó, điểm kiểm tra thường xuyên tính hệ số 1, điểm kiểm tra định kỳ tính hệ số 2. Điểm môn học, mô-đun đạt yêu cầu khi có điểm theo thang điểm 10 đạt từ 5,0 trở lên (trong

đào tạo theo niên chế), 4,0 trở lên (trong đào tạo theo phương thức tích lũy mô-đun hoặc tín chỉ).

Như vậy, việc KTĐG ở các trường cao đẳng sư phạm hiện nay phụ thuộc vào việc nhà trường đang áp dụng đào tạo theo niên chế hay theo hệ thống tín chỉ, ngành sư phạm hay ngoài sư phạm. Tuy nhiên, có thể thấy các quy chế, quy định về KTĐG hiện nay đang dần tiếp cận mục tiêu của đổi mới giáo dục. Điểm kết thúc học phần là điểm đánh giá quá trình với nội dung kiểm tra đa dạng, việc lựa chọn hình thức đánh giá mang tính mở, cho phép GV và TCM lựa chọn hình thức thi…Do đó, trong KTĐG kết quả học tập Lý luận chính trị ở trường cao đẳng sư phạm, giảng viên có thể vận dụng linh hoạt các quy định, quy chế hiện hành để đánh giá phù hợp với đối tượng và yêu cầu, xây dựng nội dung và hình thức kiểm tra, thi, đánh giá phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục.

1.4. Định hướng dạy học lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

Đổi mới là “thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển” [43].

Đổi mới là phương thức tạo ra sự thay đổi trong xã hội. Nội hàm của khái niệm đổi mới nhằm chỉ những hoạt động của con người làm thay đổi những cái cũ, lạc hậu bằng cái mới tiến bộ hơn. Với nội hàm này thì đổi mới có nhiều loại hình và cấp độ khác nhau như đổi mới kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, hành động, phương thức ứng xử, phương pháp giảng dạy, cơ chế tổ chức quản lý, cách thức sản xuất,…Ở mỗi đất nước, tùy vào từng thời điểm lịch sử, sự nghiệp đổi mới có nội dung, biện pháp và kết quả khác nhau nhưng đồng nhất với nhau với mục tiêu “cải biến cái cũ thành cái mới tiến bộ hơn”.

Trong giáo dục, khi điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thay đổi, đặc biệt với sự bùng nổ thông tin, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật ở giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải có những phương pháp, hình thức dạy học mới, phù hợp với yêu cầu của thời đại. Vì vậy, đổi mới giáo dục là yêu cầu tất yếu của mỗi quốc gia, mỗi nền giáo dục.

Vấn đề cải cách, đổi mới giáo dục được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ rất

sớm, ngay từ những ngày đầu giành được độc lập dân tộc. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV(12/1976), Đảng ta đã xác định: “...Tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước; phát triển giáo dục phổ thông; sắp xếp, từng bước mở rộng và hoàn chỉnh mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp; phát triển rộng rãi các trường dạy nghề”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Đến Đại hội VIII, về GD&ĐT, Nghị quyết nhấn mạnh với những nội dung chủ yếu: “cùng với khoa học và công nghệ, GD&ĐT là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.

Tại Đại hội IX, về vấn đề GD&ĐT, Nghị quyết nêu rõ:

Quản lý hoạt động dạy học lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục - 5

“... Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”.

Tại Đại hội X, Đảng chủ trương: “Đổi mới toàn diện GD&ĐT, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”.

Nghị quyết số 29, NQ/TƯ ngày 04/11/2013 “về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế xác định: “Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học”.

Nghị quyết 29 cũng xác định mục tiêu của đổi mới GD&ĐT là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học

tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống GD&ĐT; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.”[1]

Tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (NQ 29-NQ/TW) đề ra, Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”[1]

“Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở GD&ĐT và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học nhằm hướng đến phát triển phẩm chất, năng lực của người học”.[14]

Trong đó, những nội dung liên quan trực tiếp đến đổi mới HĐDH là:

“Đổi mới cả chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy, phương pháp học và thi cử, cả ở phổ thông và cả ở đại học, cả thầy và cả trò là sự thay đổi tổng thể, có hệ thống, có trước có sau, có trên có dưới, có trong có ngoài, có chính có phụ, tất cả các yếu tố, các quan hệ của ngành giáo dục và giữa ngành giáo dục với các ngành khác của đời sống xã hội.

Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội’.

“Trên cơ sở mục tiêu đổi mới GD&ĐT, cần xác định rõ và công khai mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo; coi đó là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở GD&ĐT; là căn cứ giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo.

Trong nội dung đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT cần nắm vững vấn đề trọng điểm là đổi mới chương trình, nội dung giáo dục theo hướng tinh giảm, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề. Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh….” [14]

“…Đổi mới mạnh mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại học theo hướng hiện đại, phù hợp với từng ngành, nhóm ngành đào tạo và việc phân tầng của hệ thống giáo dục đại học. Chú trọng phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới”.

“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan”.

“…Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học. Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội”.[14]

Đối với giáo dục đại học, ngày 02/11/2015, Chính phủ ban hành Nghị Quyết số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn

2006 - 2020, trong đó xác định rõ: “Đổi mới giáo dục đại học phải đảm bảo tính thực tiễn, hiệu quả và đồng bộ; lựa chọn khâu đột phá, lĩnh vực ưu tiên và cơ sở trọng điểm để tập trung nguồn lực tạo bước chuyển rõ rệt. Việc mở rộng quy mô phải đi đôi với nâng cao chất lượng; thực hiện công bằng xã hội đi đôi với đảm bảo hiệu quả đào tạo; phải tiến hành đổi mới từ mục tiêu, quy trình, nội dung đến phương pháp dạy và học, phương thức đánh giá kết quả học tập; liên thông giữa các ngành, các hình thức, các trình độ đào tạo; gắn bó chặt chẽ và tạo động lực để tiếp tục đổi mới giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp”. Nghị quyết cũng xác định mục tiêu của đổi mới giáo dục đại học là: “Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo được chuyển biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân dân. Đến năm 2020, giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới; có năng lực cạnh tranh cao, thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Từ đó, xác định các nhiệm vụ và giải pháp đổi mới. Trong đó, những nhiệm vụ, giải pháp đổi mới về HĐDH là:

“Cơ cấu lại khung chương trình; bảo đảm sự liên thông của các cấp học; giải quyết tốt mối quan hệ về khối lượng kiến thức và thời lượng học tập giữa các môn giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp, nâng cao hiệu quả đào tạo của từng môn học. Đổi mới nội dung đào tạo, gắn kết chặt chẽ với thực tiễn nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và nghề nghiệp trong xã hội, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng lĩnh vực, tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển tiềm năng nghiên cứu sáng tạo, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực hoạt động trong cộng đồng và khả năng lập nghiệp của người học.

Triển khai đổi mới phương pháp đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách học, phát huy tính chủ động của người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong hoạt động dạy và học. Khai thác các nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn tư liệu trên mạng Internet. Lựa chọn, sử dụng các chương trình, gi áo trình tiên tiến của các nước”.[12]

Từ những quan điểm về đổi mới giáo dục nói chung đến những quan điểm về đổi mới HĐDH ở đại học nói riêng, có thể thấy các định hướng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước,

của Bộ GD&ĐT về đổi mới HĐDH đại học hiện nay đang đi sâu vào các nội dung cơ bản là: đổi mới mục tiêu DH ở đại học theo hướng phát huy năng lực, phẩm chất của người học,đổi mới nội dung chương trình, đổi mới PPDH, hình thức tổ chức DH và đổi mới KTĐG kết quả học tập của sinh viên.

HĐDH Lý luận chính trị ở trường cao đẳng sư phạm là một nội dung giáo dục trong nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo ở bậc đại học. Việc đổi mới trong dạy học bộ môn này cũng góp phần vào việc thực hiện mục tiêu đổi mới giáo dục đại học. Để thực hiện được mục tiêu đổi mới đó, trong phạm vi nhà trường, việc dạy học Lý luận chính trị cần tập trung thực hiện theo những định hướng sau:

Thứ nhất, đổi mới nội dung chương trình Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng sư phạm theo hướng tinh giảm, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề. Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Với bộ môn Lý luận chính trị, nội dung giáo dục cần đặc biệt chú trọng những giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.

Thứ ba, đổi mới hình thức tổ chức dạy học theo hướng đa dạng hóa hình thức dạy học.

Thứ tư, thực hiện KTĐG kết quả học tập theo hướng hiện đại, từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội.

1.5. Quản lý HĐDH Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

Quản lý HĐDH Lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục là những tác động có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức, có điều khiển, điều chỉnh của chủ thể quản lý nhà trường đến quá trình dạy học Lý luận chính trị nhằm đáp ứng các mục tiêu giáo dục và yêu cầu phát triển của đất nước, của thời đại. Ở trường cao đẳng sư phạm, quản lý HĐDH Lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục bao gồm những nội dung sau:

1.5.1. Quản lý thực hiện mục tiêu, nội dung chương trình dạy học Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm

Mục tiêu, nội dung chương trình Lý luận chính trị ở trường cao đẳng Sư phạm được quy định tại Quyết định số 52/2008/QĐ/BGDĐT ngày 18 tháng 9 năm 2008 “Ban hành chương trình các môn lý luận chính trị trình độ đại học, cao đẳng dùng cho sinh viên khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đây là căn cứ để CBQL nhà trường quản lý HĐDH Lý luận chính trị của GV. [5]

Để quản lý tốt việc thực hiện mục tiêu, nội dung chương trình dạy học Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng sư phạm, Hiệu trưởng cần chỉ đạo:

- Quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, linh hoạt, sáng tạo chương trình dạy học Lý luận chính trị ở trường cao đẳng.

- Phổ biến về mục tiêu giáo dục Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng sư phạm và mục tiêu đổi mới giáo dục hiện nay.

- Chỉ đạo các TCM xây dựng kế hoạch giảng dạy và kiểm soát chặt chẽ tiến độ thực hiện chương trình dạy học. Hiệu trưởng hướng dẫn TCM, giảng viên quy trình xây dựng kế hoạch, giúp họ xác định mục tiêu dạy học, nội dung chương trình và tìm ra các biện pháp thực hiện mục tiêu đó. Hiệu trưởng sẽ phê duyệt kế hoạch của TTCM. Từ kế hoạch chung của mỗi TCM, các TTCM hướng dẫn GV lập kế hoạch dạy học cá nhân và duyệt kế hoạch này của mỗi GV.

- Phê duyệt kế hoạch dạy học và kiểm tra giám sát việc giảng viên thực hiện nhiệm vụ dạy học Lý luận chính trị theo đúng kế hoạch đã được phê duyệt của lãnh đạo nhà trường.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 28/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí