1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
1.1.2.1. Các nghiên cứu về HĐDH và quản lý HĐDH
Ở Việt Nam, vấn đề HĐDH cũng đã được đề cập trong một số tác phẩm của một số nhà chính trị, quân sự, nhà giáo dục lỗi lạc dưới thời phong kiến như: Nguyễn Trãi, Chu Văn An,...
Thế kỷ thứ XX, hệ thống những quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của giáo dục, định hướng phát triển giáo dục, mục đích dạy học, các nguyên lý dạy học, các phương thức dạy học, vai trò của quản lý và CBQL giáo dục, phương pháp lãnh đạo và quản lý,...có giá trị rất lớn trong quá trình phát triển lý luận dạy học, lý luận giáo dục, góp phần định hướng sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam [27].
Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu và các nhà giáo dục Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục mà còn tích cực nghiên cứu, tìm hiểu về những vấn đề lý luận dạy học, quản lý HĐDH ở các nước tư bản phát triển, nghiên cứu các mô hình dạy học tiên tiến trên thế giới. Đồng thời, đứng trước nhiệm vụ đổi mới giáo dục đào tạo, nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề về vị trí, vai trò của việc tổ chức quá trình dạy học, ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng dạy học, ưu và nhược điểm của các hình thức dạy học hiện nay, vai trò của người dạy và người học, đổi mới nội dung và PPDH, các yếu tố liên quan đến quá trình dạy học, ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng dạy học,... Trong đó, vấn đề quản lý giáo dục được đề cập ở nhiều công trình nghiên cứu. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết của các tác giả như Hà Thế Ngữ, Thái Duy Tuyên, Hồ Ngọc Đại, Đặng Vũ Hoạt, Trần Kiều, Nguyễn Văn Lê, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Ngọc Quang, Trần Kiểm, Nguyễn Cảnh Toàn...
Hệ thống lý luận về HĐDH và quản lý HĐDH còn được trình bày rất chi tiết, rõ ràng trong giáo trình về quản lý giáo dục của Học viện Quản lý Giáo dục, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Thái Nguyên, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục (Viện Khoa học giáo dục Việt Nam), Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Giáo dục Hà Nội,...
Về quản lý HĐDH, có khá nhiều luận văn nghiên cứu nhưng chủ yếu tập trung ở các trường phổ thông. Quản lý HĐDH ở các trường đại học, cao đẳng cũng có một vài nghiên cứu như:
Phạm Hải Hà (2010), “Biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của giáo dục ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội”.
Đặng Thụy Đan Thanh (2011), “Quản lý HĐDH của Hiệu trưởng trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu”.
Phousinh Khounsylyheuang (2015), “Quản lý HĐDH môn Tiếng Anh ở trường Cao đẳng Sư phạm Luông Nặm Tha - CHDCND Lào”.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động dạy học lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục - 1
- Quản lý hoạt động dạy học lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục - 2
- Hđdh Lý Luận Chính Trị Ở Trường Cao Đẳng Sư Phạm
- Định Hướng Dạy Học Lý Luận Chính Trị Ở Trường Cao Đẳng Sư Phạm Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục
- Quản Lý Hoạt Động Dạy Lý Luận Chính Trị Của Giảng Viên Ở Trường Cao Đẳng Sư Phạm Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Sengphachanh Sithilath (2017), “Quản lý HĐDH môn Tiếng Anh ở Trường Cao đẳng Sư phạm Pakse nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào”.
1.1.2.2. Các nghiên cứu về HĐDH và quản lí dạy học Lý luận chính trị
Về HĐDH Lý luận chính trị, có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này trên các phương diện khác nhau:
Luận án tiến sỹ triết học “Phát huy vai trò đội ngũ giảng viên trong đổi mới giáo dục các môn Lý luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng Việt Nam hiện nay”, Đại học Quốc gia Hà Nội, trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, 2015 tập trung nghiên cứu về thực trạng đội ngũ giảng viên Lý luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng và đề xuất một số biện pháp phát huy vai trò của đội ngũ đó trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.
Luận văn “Vai trò của việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên cao đẳng sư phạm Nam Định”, Nguyễn Văn Long, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010 chủ yếu nghiên cứu tác động của việc dạy học Lý luận chính trị đến việc hình thành thế giới quan cho sinh viên.
Một số bài báo đăng trên các tạp chí khoa học nghiên cứu HĐDH Lý luận chính trị ở những khía cạnh khác nhau:
Võ Văn Dung, Đỗ Thị Thùy Trang (2015), “Thực trạng dạy và học các môn Lý luận chính trị trong các trường cao đẳng hiện nay”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia 2015, Đại học quốc gia thành phố HCM.
Phạm Đức Minh (2018), “Dạy học và KTĐG các môn LLCT theo hướng tiếp cận năng lực nghề nghiệp ở trường đại học” - Tạp chí Giáo dục, số 440 (kỳ 2 - t.10)
Phan Thị Thu Hà (2018), “Đổi mới phương pháp KTĐG kết quả học tập của Sinh viên trong dạy học Lý luận chính trị ở trường Đại học, cao đẳng theo định hướng năng lực” - Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6, 2018.
Trần Thanh Hương (2018), “Những yếu tố tích cực nhằm nâng cao năng lực sư phạm cho giảng viên giáo dục Lý luận chính trị hiện nay” - Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt, kỳ II, tháng 5/2018.
Nguyễn Thị Diễm Hằng (2017), “Một số phương pháp hướng dẫn sinh viên tự học các môn Lý luận chính trị có hiệu quả” - Tạp chí giáo dục số đặc biệt, kỳ II tháng 10/2017....
Về quản lý HĐDH Lý luận chính trị, theo tìm hiểu của tác giả, số lượng các công trình nghiên cứu không nhiều, có thể kể đến một số công trình sau:
Luận án Tiến sỹ quản lý giáo dục “Quản lý đào tạo giảng viên Lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu thời kỳ đổi mới hiện nay”, Nguyễn Thị Thu Thủy, Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2012.
Luận văn Thạc sỹ quản lý giáo dục “Quản lý hoạt động bồi dưỡng Lý luận chính trị cho học viên tại trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn”, Hoàng Thị Hương, Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2014.
Mặc dù có khá nhiều nghiên cứu về HĐDH Lý luận chính trị, nhưng về và quản lý HĐDH Lý luận chính trị thì các nghiên cứu còn hạn chế. Chưa có những nghiên cứu cụ thể về quản lý HĐDH Lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay một cách có hệ thống và phù hợp với điều kiện thực tế của trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận, điều tra thực trạng nhằm đề xuất các biện pháp quản lý HĐDH Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục là cần thiết.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, xuất hiện một dạng lao động đặc thù là hoạt động của người đứng đầu một nhóm hoặc một tổ chức nhằm chỉ đạo, tổ chức, điều khiển, điều hành những người khác với các hoạt động theo những yêu cầu nhất định, dạng lao động đó được gọi là quản lý. C.Mác viết: “Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung, phát sinh từ vận động của những cơ quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm riêng lẻ tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [17, tr12].
Quản lý là một khái niệm rộng, được tiếp cận dưới nhiều góc độ:
Theo F.W. Taylor: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất” [35, tr8].
Harold Kontz cho rằng: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức) với thời gian, tiền bạc và sự bất mãn của cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn với kiến thức thì quản lý là một khoa học” [35, tr8].
James Stiner và Stenphen Robbins quan niệm: Quản lý là tiến trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra [35, tr9].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [29, tr31].
Tác giả Trần Kiểm nêu rõ: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [21, tr34].
Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ cho rằng: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu; quản lý là một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu nhất định” [18, tr28].
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra [10, tr1].
Như vậy, có thể thấy khái niệm quản lý được biểu đạt bởi nhiều cách khác nhau, nó bao gồm những nội dung cơ bản:
- Quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt trong mỗi tổ chức.
- Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục tiêu, mục đích rõ ràng.
- Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý.
- Quản lý là việc huy động, sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được mục đích của tổ chức.
- Quản lý là việc vận dụng các chức năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm
tra.
Từ những quan điểm trên, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục
đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý thông qua các chức năng lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra nhằm huy động các nguồn lực của tổ chức, làm cho tổ chức vận hành và đạt được những mục tiêu đã đề ra của tổ chức.
1.2.2. Hoạt động dạy học
Theo quan niệm hiện đại, HĐDH cần được xem xét trên ba phương diện chính
sau:
Về phương diện xã hội - lịch sử, HĐDH là quá trình và kết quả của sự tái sản
xuất và phát triển những giá trị kinh nghiệm xã hội cơ bản, có chọn lọc, ở từng cá nhân thuộc những thế hệ người học nhất định để thực hiện những chức năng phát triển cá nhân và cộng đồng.
Về phương diện tâm sinh lí, HĐDH là hình thức phổ biến của sự phát triển cá nhân và cộng đồng. Mỗi cá nhân trong bất kì xã hội nào cũng đều đồng thời phát triển dưới hai hình thức: hình thức cá biệt, đặc thù, của riêng anh ta, do gen và môi trường hoạt động cá nhân của người đó quy định; hình thức phổ biến, chung cho cả thế hệ hoặc vài thế hệ người thuộc cộng đồng nhất định - tức là dạy học của cộng đồng đó.
Về mặt sư phạm, HĐDH chính là việc gây ảnh hưởng có chủ định đến hành vi học tập và quá trình học tập của người học, tạo ra môi trường và những điều kiện để người học duy trì việc học, cải thiện hiệu quả chất lượng học tập, kiểm soát quá trình và kết quả học tập của họ [19, tr17-32].
Theo tiếp cận hệ thống, HĐDH là một hệ thống toàn vẹn bao gồm các thành tố cơ bản: mục tiêu, nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học, GV - hoạt động dạy, SV - hoạt động học, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, phương tiện dạy học và kết quả học tập của SV. Mỗi thành tố này có vị trí, vai trò và chức năng đặc thù, có quan hệ thống nhất biện chứng với nhau và có tác động qua lại với môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học - công nghệ.
Theo tiếp cận tương tác, HĐDH được hiểu là hoạt động phối hợp tương tác và thống nhất giữa hoạt động chủ đạo của GV và hoạt động tự giác tích cực, chủ động của SV nhằm thực hiện mục tiêu dạy học. Theo cách tiếp cận này, HĐDH bao gồm hai thành tố là hoạt động dạy của GV và hoạt động học của SV.
Hoạt động dạy là hoạt động của GV được thực hiện theo một chiến lược, chương trình đã được thiết kế tác động đến SV nhằm thực hiện chức năng truyền đạt thông tin và điều khiển hoạt động học bằng các PPDH giúp SV chiếm lĩnh, lĩnh hội các tri thức, kỹ năng nhất định. Hoạt động học là quá trình tiếp thu, xử lý thông tin chủ yếu bằng các thao tác trí tuệ của SV dưới sự điều khiển của GV nhằm lĩnh hội, chiếm lĩnh tri thức.
Như vậy, có thể hiểu: HĐDH là quá trình GV tiến hành các thao tác có tổ chức và có định hướng giúp SV bằng hoạt động của bản thân, từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các yêu cầu thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi SV.
HĐDH là hoạt động tương tác, xem xét hoạt động của GV đều có liên quan đến hoạt động của SV và ngược lại. Nhìn từ góc độ tính chủ thể của hoạt động sư phạm, để hoạt động dạy của GV và hoạt động học của SV được tiến hành thì không thể thiếu vai trò của chủ thể. Trong HĐDH, chủ thể hoạt động là GV và SV. SV là chủ thể của hoạt động học, GV là chủ thể của hoạt động dạy. Thầy và trò là những chủ thể cùng nhau hoạt động, duy trì, tiếp nối hoạt động. Đối tượng của hoạt động học tập là lĩnh hội các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Mục tiêu của HĐDH là hình thành và phát triển nhân cách, năng lực của người học. Thầy tích cực, chủ động trong hoạt động dạy và trò tích cực, chủ động tham gia hoạt động học. HĐDH của GV mang ý nghĩa là phương tiện, là công cụ hỗ trợ thúc đẩy hoạt động học của SV đúng hướng và hiệu quả.
Tuy nhiên, hoạt động dạy của GV và hoạt động học của SV có tính độc lập tương đối. Hoạt động học là hoạt động nhận thức độc đáo của người học, thông qua đó người học thay đổi chính bản thân mình và ngày càng có năng lực hơn trong hoạt động nhận thức và cải biến hiện thực khách quan.
1.2.3. Quản lý hoạt động dạy học
Trong nhà trường, Quản lý HDDH là quá trình CBQL xác lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, giám sát, kiểm tra hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Nhiệm vụ hàng đầu của Quản lý HĐDH là quản lý có hiệu quả các thành tố
cấu trúc của HĐDH, cần phải tạo điều kiện và tác động cho sự cộng tác tối ưu giữa GV và HS nhằm xác định đúng mục tiêu, lựa chọn nội dung phù hợp kế hoạch, áp dụng hài hòa các PP, tận dụng các phương tiện và điều kiện hiện có, tổ chức linh hoạt các hình thức DH, tìm ra phương thức kiểm tra - đánh giá kết quả DH đáng tin cậy.
QL hoạt động DH là QL việc chấp hành các quy định (điều lệ, quy chế, nội quy...) về hoạt động giảng dạy của GV và hoạt động học tập của HS, đảm bảo cho hoạt động đó được tiến hành tự giác, có nề nếp, có chất lượng và hiệu quả cao.
Có thể hiểu: QL hoạt động DH là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể QL tới khách thể QL trong quá trình DH nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực giáo dục để thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra.
1.2.4. Môn Lý luận chính trị ở trường Cao đẳng sư phạm
Ở các trường Cao đẳng Sư phạm, chương trình các môn Lý luận chính trị trình độ đại học, cao đẳng dùng cho sinh viên khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 3 môn:
- Môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thời lượng: 5 tín chỉ (phần 1: 2 tín chỉ; phần 2 và 3: 3 tín chỉ), trong đó nghe giảng: 70%, thảo luận: 30%. Điều kiện tiên quyết: Bố trí học năm thứ nhất trình độ đào tạo đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là môn học đầu tiên của chương trình các môn Lý luận chính trị trong trường đại học, cao đẳng.
- Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Thời lượng: 2 tín chỉ, trong đó nghe giảng: 70%, thảo luận: 30%. Điều kiện tiên quyết: Sinh viên phải học xong môn học Những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thời lượng: 3 tín chỉ, trong đó nghe giảng: 70%, thảo luận: 30%. Điều kiện tiên quyết: Sinh viên phải học xong môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mục tiêu của chương trình các môn Lý luận chính trị ở trường CĐSP nhằm giúp sinh viên:
- Xác lập cơ sở lý luận cơ bản nhất để từ đó có thể tiếp cận được nội dung môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, hiểu biết nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng cho sinh viên; từng bước xác lập thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận chung nhất để tiếp cận các khoa học chuyên ngành được đào tạo.
- Cung cấp những hiểu biết có tính hệ thống về tư tưởng, đạo đức, giá trị văn hoá, Hồ Chí Minh; cùng với môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin tạo lập những hiểu biết về nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng và của cách mạng nước ta; góp phần xây dựng nền tảng đạo đức con người mới.
- Cung cấp cho sinh viên những nội dung cơ bản của đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó chủ yếu tập trung vào đường lối của Đảng thời kỳ đổi mới trên một số lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội phục vụ cho cuộc sống và công tác. Xây dựng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng; Giúp sinh viên vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích cực trong giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội theo đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
1.2.5. Quản lí HĐDH Lý luận chính trị ở trường CĐSP
QL hoạt động DH là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể QL tới khách thể QL trong quá trình DH nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực giáo dục để thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra.
Có thể nói, quản lý HĐDH là quản lý các thành tố của quá trình dạy học, quản lý việc vận hành quá trình dạy học một cách có kế hoạch, có tổ chức, có điều khiển, điều chỉnh nhằm đạt đến mục tiêu xác định.
Ở một phạm vi nhất định, có thể hiểu quản lý HĐDH Lý luận chính trị ở trường CĐSP là quản lý các thành tố của quá trình dạy học môn học theo một trình tự logic, bao gồm:
- Quản lý việc thực hiện mục tiêu, nội dung chương trình dạy học Lý luận chính trị.
- Quản lý hoạt động dạy của GV
- Quản lý hoạt động học của SV
- Quản lý việc KTĐG kết quả học tập Lý luận chính trị của SV
- Quản lý việc khai thác, sử dụng CSVC, TBHD trong quá trình dạy học Lý luận chính trị.