trong việc áp dụng chế định án treo nói riêng và quá trình thực hiện nhiệm vụ nói chung.
Thứ năm, sự bất cập trong hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành, cụ thể hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước ta hiện hành quy định chưa chặt chẽ và đầy đủ về trách nhiệm cá nhân, sự ràng buộc về chế định pháp lý khi người bị kết án mà vi phạm điều kiện của thời gian thử thách của án treo trong quá trình quản lý và giáo dục người bị kết án mà chỉ quy định việc vi phạm điều kiện của thử thách khi mà họ phạm tội mới. Có thể nói quy định của pháp luật như trên làm công tác quản lý đối với những người phạm tội được hưởng án treo chấp hành án tại cộng đồng gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí một số địa phương còn buông lỏng không quan tâm theo dòi đôn đốc, phó mặc cho các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của luận văn tác giả đã đánh giá, phân tích thực trạng hoạt động áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến hết năm 2020. Tại chương 2, trên cơ sở các số liệu cụ thể, những vụ án thực tiễn tác giả đã đánh giá tình hình có liên quan đến việc áp dụng án treo, tình hình áp dụng án treo; đồng thời đánh giá, phân tích những kết quả đạt được trong hoạt động áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước đồng thời cũng chỉ rò những tồn tại, hạn chế trong hoạt động áp dụng án treo giai đoạn 2016 - 2020. Từ những phân tích tồn tại, hạn chế đó tác giả đã phân tích những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên làm ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong thời gian qua. Những đánh giá về thực trạng áp dụng án treo tại Bình Phước thời gian qua sẽ là cơ sở để tác giả đưa ra những giải pháp cho thực trạng này tại Chương 3 của luận văn.
Chương 3
GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG ÁN TREO TRONG THỰC TIỄN
3.1. Các yếu tố tác động đến hiệu quả áp dụng đúng án treo
3.1.1. Yếu tố khách quan
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Quát Tình Hình Áp Dụng Án Treo Trên Địa Bàn Tỉnh Bình Phước
- Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước - 7
- Thực Trạng Mối Quan Hệ Phối Hợp Giữa Tòa Án Và Các Cơ Quan Tiến Hành Tố Tụng Khác Trong Việc Áp Dụng Chế Định Án Treo Trên Địa Bàn Tỉnh Bình
- Về Thời Gian Thử Thách Và Cách Tính Thời Gian Thử Thách Của Án
- Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước - 11
- Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước - 12
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
3.1.1.1. Về kinh tế
Yếu tố tác động đầu tiên và quan trọng nhất hiện nay tác động đến hiệu quả của áp dụng án treo nói riêng và áp dụng pháp luật nói chung chính là yếu tố kinh tế. Một nền kinh tế phát triển lành mạnh, ổn định và vững chắc sẽ tạo ra những tác động tích cực đến hoạt động này.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng của đất nước ta đòi hỏi hệ thống các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân càng phải được đề cao và tôn trọng hơn bao giờ hết. Từ đó yêu cầu tư duy áp dụng pháp luật cởi mở hơn, thoáng hơn mang lại hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn cao hơn. Quá trình vận động, phát triển và thay đổi của nền kinh tế thị trường trong điều kiện mới sẽ tác động một cách sâu sắc đến đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật hình sự nói chung và đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân khi tiến hành xét xử nói riêng. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ ban hành chính sách pháp luật hình sự nói chung và người phạm tội được hưởng án treo nói riêng cũng chịu sự tác động nhất định. Đó là khi nền kinh tế phát triển, đời sống cán bộ áp dụng pháp luật được đãi ngộ đầy đủ, no ấm thì họ sẽ yên tâm công tác, hạn chế tiêu cực, chỉ hướng về một mục tiêu là áp dụng đúng pháp luật; hay khi người dân ít thiếu thốn, khó khăn thì nhận thức cao hơn, tỷ lệ phạm tội giảm đi hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm cao hơn.
Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ nhiều mối quan hệ mới, nhiều tội phạm mới với những thủ đoạn rất tinh vi xuất hiện: Tội phạm tham nhũng như tội phạm đưa và nhận hối lộ biến
tướng dưới nhiều hình thức: Thăm hỏi, tặng quà các dịp lễ, tết với giá trị rất lớn… làm cho vật chất chi phối lương tâm và nhân cách của con người; nảy sinh ra những quan hệ “bẩn”, con người “bẩn” và đồng tiền “bẩn”… và trong nhiều trường hợp, nó chi phối tính chính xác của việc áp dụng án treo trong thực tiễn, khi mà Hội đồng xét xử áp dụng án treo không chính xác do bị chi phối về lợi ích kinh tế - tức là bị mua chuộc, lôi kéo bằng vật chất.
Tóm lại, tất cả những yếu tố này đã, đang và tác động một cách trực tiếp lẫn gián tiếp đến hoạt động áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng án treo nói riêngít nhiều làm giảm đi hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời gian tới.
3.1.1.2. Về chính trị
Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Phước cũng như trên địa bàn cả nước thời gian qua đã có nhiều tiến bộ; đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định của pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, thi hành án, luật sư, công chứng, giám định tư pháp theo đúng chủ trương, định hướng lớn nêu trong Chiến lược cải cách tư pháp. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là không ngừng cải cách hệ thống tư pháp để góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực hiện tốt chức năng quản lý của nhà nước. Do đó, trong thời gian tới, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật mà trọng tâm là hoạt động xét xử của Tòa án.
Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp của đất nước, thời gian tới các cơ quan tư pháp của Bình Phước cần tăng cường tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, bổ sung cương lĩnh của Đảng về xây dựng bộ máy tư pháp trong sạch, vững mạnh, nghiêm minh, dân chủ, bảo vệ các quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo vệ quyền con người.
Từ những luận giải trên cho thấy, cải cách tư pháp trong đó cải cách hoạt động xét xử của Tòa án làm trọng tâm nhằm đảm bảo các quyền con người cần được các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn. Đây là hoạt động hết sức cấp bách và cần thiết, đòi hỏi các cơ quan này phải có sự nghiên cứu thận trọng, tỷ mỷ và đầy đủ về vấn đề này, qua đó cung cấp luận cứ khoa học cho việc đẩy mạnh cải cách tư pháp, đưa ra những phương hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn tới.
3.1.2. Yếu tố chủ quan
Bên cạnh những yếu tố khách quan tác động đến hoạt động áp dụng án treo thì yếu tố chủ quan cũng có những tác động không nhỏ tới hoạt động này, cụ thể:
3.1.2.1. Những quy định của pháp luật hình sự về án treo chưa rò ràng, còn mang tính tùy nghi hoặc chưa đầy đủ
BLHS 2015 sửa đổi 2017 của nước ta ra đời cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với chính sách hình sự đã có sự thay đổi nhất định. Những quy định của pháp luật hình sự về chế định án treo còn chưa cụ thể, rò ràng, nhiều quy định còn mang tính tùy nghi hoặc chưa đầy đủ làm cho quá trình vận dụng pháp luật đối với những trường hợp cho hưởng án treo của những người thẩm quyền đặc biệt là HĐXX còn bất cập, khó khăn, dẫn đến những trường hợp phán quyết về án treo (như đã nêu ở chương 2) còn phiến diện, một chiều, chưa chính xác, chưa phát huy hết được tính chất của chế định này.
Trong thời gian tới các cơ quan có thẩm quyền sẽ sửa đổi, bổ sung những quy định bất hợp lý trong chính sách hình sự trong đó có quy định về chế định án treo, đồng thời Chính phủ, TAND tối cao sẽ ban hành nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng án treo. Đây là nhân tố tác động một cách trực tiếp
tạo thuận lợi cho hoạt động áp dụng án treo của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền sau này.
3.1.2.2. Trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
Yếu tố con người luôn là yếu tố then chốt, yếu tố quan trọng nhất trong quá trình áp dụng pháp luật về án treo vào thực tiễn xét xử. Thực tiễn áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời gian qua cho thấy: có trường hợp HĐXX cho hưởng án treo không đúng với các quy định của pháp luật xuất phát từ nguyên nhân như nhận thức pháp luật sai lầm do quy định về chế định này còn chưa rò ràng, cũng có những trường hợp cho hưởng án treo không đúng quy định do bị suy thoái về đạo đức, có nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác để cho người phạm tội được hưởng án treo. Ngoài ra còn có trường hợp HĐXX phải chịu áp lực của cấp trên...
Chính vì vậy, vấn đề về nâng cao trình độ năng lực chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trên địa bàn tỉnh Bình Phước là một yêu cầu cần thiết, cấp bách, một đòi hỏi tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp nhất là trong giai đoạn đất nước ta hội nhập ngày càng sâu và rộng cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế và pháp luật hiện nay. Ngoài ta, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với những người làm công tác tư pháp nhất là hệ thống Tòa án, đời sống vật chất và chế độ đãi ngộ ngày càng tăng dẫn tới những người này yên tâm công tác, yên tâm rèn luyện và tu dưỡng phẩm chất đạo đức.
Do đó, trình độ, năng lực của những người có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước để áp dụng pháp luật sẽ ngày càng được nâng lên, đủ sức đảm đương với yêu cầu công việc, trình độ, năng lực chuyên môn của Thẩm phán sẽ ngày càng vững vàng và hoạt động xét xử - trong đó có áp dụng án treo sẽ hiệu quả hơn; công cuộc cải cách tư pháp sẽ về đích đúng thời hạn mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra.
tiễn
3.2. Một số giải pháp góp phần áp dụng đúng án treo trong thực
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về án treo
3.2.1.1. Về các căn cứ cho người bị kết án được hưởng án treo.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS 2015 thì căn cứ về mức hình
phạt tù để cho hưởng án treo là “Khi xử phạt tù không quá ba năm”. Có nghĩa là khi bị cáo bị xử về bất cứ tội phạm gì, bất kể khung hình phạt là như thế nào, chỉ cần mức hình phạt tù từ ba năm trở xuống thì Toà án có thể xem xét cho bị cáo được hưởng án treo. Quy định như vậy là quá rộng dẫn đến việc áp dụng án treo tràn lan, thiếu nghiêm khắc. Theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 8 BLHS về phân loại tội phạm thì căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong BLHS, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thực tiễn xét xử cho thấy, vì Luật không giới hạn áp dụng án treo cho loại tội phạm nào cho nên có Toà án đã áp dụng áp treo đối với những bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng. Đây có thể coi là một kẻ hở của pháp luật, vì có ý định cho bị cáo hưởng án treo từ đầu nên có một số Thẩm phán tìm cách để vận dụng cho bị cáo được hưởng án treo ngay cả đối với những trường hợp phạm rất nghiêm trọng.
Vì vậy, tôi đề nghị rằng, nên có sự hướng dẫn cụ thể phạm vi áp dụng án treo là “chỉ đối với những tội phạm ít nghiêm trọng và những tội phạm nghiêm trọng mới xem xét cho hưởng án treo”. Tuyệt đối không được áp dụng án treo đối với những người phạm tội rất nghiêm trọng. Như vậy mới nâng cao được hiệu quả của án treo, tránh áp dụng án treo tràn lan, gây mất tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng.
Qua thực tiễn thi hành quy định một số trường hợp không được hưởng án treo, còn có nhiều ý kiến nhận thức còn chưa rò ràng, gây khó khăn cho
công tác thực tiễn xét xử, gây bất lợi cho người phạm tội, có mâu thuẫn với quy định tại Điều 65 BLHS.
Thứ hai, về nhân thân người phạm tội.
Theo quy định: về điều kiện về nhân thân để một người phạm tội được hưởng án treo là họ phải có nhân thân tốt, nhưng để đánh giá một người có nhân thân tốt thì phải là sự đánh giá cả một quá trình về thái độ của người phạm tội trước, trong và sau khi phạm tội trong mối quan hệ với nhau. Sự đánh giá người phạm tội trước, trong và sau khi phạm tội sẽ có được một kết quả đúng đắn và khách quan nhất, bởi vì trong nhiều trường hợp người phạm tội sau khi phạm tội thì tỏ vẻ thật thà, ăn năn, hối cải nhưng đó chỉ là biểu hiện bên ngoài nhằm che đậy bản chất bên trong hòng đánh lừa cơ quan tiến hành tố tụng để được coi đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Do đó, nếu chỉ căn cứ vào sự đánh giá ở góc độ này sẽ dẫn đến cái nhìn phiến diện và không thấy được bản chất nguy hiểm của người phạm tội, vì chứng tỏ rằng trong những trường hợp này người phạm tội có kinh nghiệm đối phó với cơ quan điều tra, xét xử… Như vậy thì không thể cho người phạm tội có bản chất nguy hiểm thể hiện một quá khứ với quá khứ bất hảo ở địa phương trước khi phạm tội thể hiện sự tính toán sắp đặt tinh vi xảo quyệt, trong khi phạm tội thì cố ý thực hiện tội phạm đến cùng, thủ đoạn và hành vi phạm tội thể hiện sự dã man, côn đồ, khi bị bắt thì quanh co, gian dối… được hưởng án treo – những người phạm tội như vậy sẽ không thể tự giáo dục, cải tạo chính mình được mà cần những hình phạt nghiêm khắc hơn. Việc chỉ cho những người vì hoàn cảnh khó khăn mà nhất thời phạm tội, phạm tội lần đầu, thủ đoạn phạm tội đơn giản, đã tự nguyện bồi thường và có thái độ ăn năn, hối cải thực sự về hành vi phạm tội của mình, được hưởng án treo sẽ phát huy được tác dụng tích cực của chế định này.