dung/chủ đề học tập. Trong mô hình LHĐN, HS TH kiến thức mới qua bài giảng, học liệu do GV cung cấp thông qua hệ thống quản lý học tập hoặc bằng các phương tiện công nghệ khác. Bài giảng trở thành bài tập ở nhà mà HS phải chuẩn bị trước khi lên lớp. Toàn bộ thời gian trên lớp sẽ dành cho các hoạt động thảo luận, giải đáp về kiến thức mới, vận dụng vào giải quyết vấn đề, tiến hành hoạt động thực hành, thực tiễn. GV đóng vai trò là người điều tiết hỗ trợ, có thể giúp HS giải quyết những điểm khó hiểu trong bài học mới [65].
Hình 1.13. So sánh mô hình LHĐN và lớp học truyền thống
Hình 1.14. LHĐN, lớp học truyền thống và các cấp độ tư duy của HS trong thang đo của Bloom |
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Vấn Đề Vận Dụng Mô Hình Blended Learning Phát Triển Năng Lực Tự Học Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông
- Một Số Lí Thuyết Nền Tảng Cho Dạy Học Phát Triển Năng Lực Học Sinh
- Đặc Điểm, Vai Trò Và Các Cấp Độ Của Blended Learning
- Thực Trạng Vấn Đề Tự Học, Phát Triển Năng Lực Tự Học Và Vận Dụng Blended Learning Trong Dạy Học Hóa Học Ở Trường Trung Học Phổ Thông
- Biện Pháp Vận Dụng Mô Hình Blended Learning Trong Dạy Học Phần Hóa Học Hữu Cơ Lớp 11 Phát Triển Năng Lực Tự Học Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông
- Phân Tích Chương Trình Phần Hóa Học Hữu Cơ Lớp 11
Xem toàn bộ 264 trang tài liệu này.
Một số kiểu mô hình LHĐN tiêu biểu [58]:
LHĐN căn bản: HS được yêu cầu xem video bài giảng và tài liệu học tập ở nhà như là điều kiện bắt buộc chuẩn bị cho giờ học lên lớp. Trong giờ học trên lớp, HS vận dụng kiến thức đã học ở nhà nhằm mở rộng kiến thức.
LHĐN micro: Các video bài giảng ngắn cùng với các bài tập ngắn được giao cho HS. Phần còn lại của bài giảng và bài tập được tiến hành trong giờ học.
LHĐN hướng dẫn - thảo luận: Bài tập về nhà được giao ở dạng bài giảng video và nguồn video khác. Các cuộc thảo luận diễn ra trong lớp học để HS khám phá thêm
các chủ đề, bổ sung thêm các hiểu biết sau khi nghiên cứu những điều cơ bản.
LHĐN chú trọng làm mẫu: Dành cho môn học yêu cầu HS ghi nhớ và lặp lại hành động một cách chính xác. Các công cụ ghi hình được sử dụng để tạo các video hướng dẫn được sử dụng như bài tập về nhà để HS học tập theo nhịp độ và khả năng.
LHĐN của Faux (dành cho những HS nhỏ tuổi): Bài tập về nhà được thay thế bằng các video bài giảng có hướng dẫn và các học liệu khác. Trên lớp, lần lượt HS được GV hướng dẫn và hỗ trợ để hiểu nội dung học tập.
LHĐN theo nhóm: Sau khi HS nghiên cứu tài liệu được cung cấp, nhóm HS làm bài tập trong lớp, giải thích kết quả bài tập với nhau, qua đó hiểu và ghi nhớ kiến thức.
LHĐN ảo: HS được tiếp cận bài giảng, nguồn học liệu trên mạng và làm bài tập nộp cho GV. HS gặp GV trên lớp học theo nhu cầu của từng cá nhân.
LHĐN vai trò GV: HS tự quay video thể hiện sự hiểu biết và NL của mình, về vai trò của mình trong nhóm. GV đánh giá sự tiến bộ học tập thông qua các video của HS.
- Vòng xoay cá nhân: HS luân chuyển với một lịch trình cố định và riêng biệt khi học tập một nội dung/chủ đề nhất định. HS không nhất thiết phải xoay vòng qua tất cả các phương thức học tập có sẵn mà theo lịch trình riêng do GV chỉ định phù hợp với từng cá nhân.
b. Mô hình linh hoạt (Flex model): HS học tập chủ yếu qua các nội dung và hướng dẫn được cung cấp qua internet theo một chương trình linh hoạt giữa các phương thức học tập được quản lý, điều khiển chặt chẽ bởi GV trên hệ thống quản lý học tập. Mỗi HS khi đó sẽ cần các hướng dẫn trực tiếp ở mức độ khác nhau và GV sẽ cung cấp hỗ trợ trực tiếp ở lớp một cách linh hoạt theo nhu cầu của từng cá nhân HS.
c. Mô hình Tự kết hợp (A La Carte): HS lựa chọn một hay nhiều khóa học trực tuyến hoàn chỉnh ngoài thời gian lên lớp để bổ sung cho khóa học trên lớp học. HS tự lựa chọn các khóa học trực tuyến riêng và thực hiện học tập bất cứ thời gian theo kế hoạch sắp xếp của cá nhân, ở trường học hoặc ở nhà. Mô hình này khác với mô hình Nâng cao từ xa vì các khóa học trực tuyến không bắt buộc giống nhau giữa tất cả HS trong nhà trường. Một số khóa học có thể không được cung cấp bởi nhà trường nhưng các HS vẫn có thể lựa chọn nếu họ muốn học một lĩnh vực cụ thể nào đó.
d. Mô hình Nâng cao từ xa (Eriched-Virtual): HS tham gia chủ yếu vào một khóa học hoàn chỉnh với các nội dung và hướng dẫn trực tuyến. Việc học tập trên lớp
học chỉ giúp bổ sung thêm các trải nghiệm cho HS về những kiến thức thu được ở khóa học trực tuyến. Mô hình này khác với mô hình LHĐN bởi vì thời gian học tập trực tiếp của HS trên lớp học ít hơn nhiều so với trực tuyến và cũng khác với mô hình Tự kết hợp bởi khóa học trực tuyến được thiết kế là bắt buộc với tất cả các HS.
Như vậy, có nhiều mô hình BL dựa trên các trình tự và tỉ lệ kết hợp khác nhau của phương thức dạy học mạng và trên lớp học. Tuy nhiên, không có một mô hình BL nào là hiệu quả nhất có thể áp dụng trong mọi trường hợp. Để các mô hình BL này được thực sự mang lại hiệu quả thì cần thiết phải đưa ra được các bước DH cụ thể phù hợp với từng nội dung/bài học và mục tiêu DH.
1.5. Một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực và công cụ hỗ trợ tổ chức dạy học theo mô hình blended learning phát triển năng lực tự học cho học sinh
Khi vận dụng BL, việc học tập của HS được thực hiện một phần trực tuyến nên tạo điều kiện cho việc triển khai các PPDH tích cực trên lớp học. Bên cạnh đó, một số PPDH tích cực triển khai theo hình thức BL sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn trong DH. Dưới đây trình bày một số PPDH tiêu biểu và công cụ hỗ trợ để DH theo mô hình BL phát triển NLTH của HS mà chúng tôi định hướng sử dụng trong luận án.
1.5.1. Một số phương pháp dạy học tích cực
1.5.1.1. Dạy học dự án Khái niệm, đặc điểm
Dạy học dự án (DHDA) có thể là một quan điểm DH hoặc một hình thức DH hay một PPDH phức hợp. Chúng tôi quan niệm: DHDA là một PPDH phức hợp, trong đó
Hình 1.15. Đặc điểm của DHDA |
Quy trình tổ chức dạy học dự án
Theo [52] tiến trình DHDA gồm 5 bước:
Bước 1: Xây dựng ý tưởng DA - Quyết định chủ đề: GV tổ chức HS cùng nhau đề xuất ý tưởng, xác định chủ đề và mục tiêu của DA. GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài để HS lựa chọn và cụ thể hóa. HS thảo luận quyết định chủ đề và xây dựng các vấn đề nghiên cứu cụ thể sử dụng kĩ thuật 5W1H, SĐTD, khăn trải bàn.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch: HS xây dựng kế hoạch cho việc thực hiện DA dưới sự hướng dẫn của GV, xác định rõ các nhiệm vụ cần làm, dự kiến thời gian, vật liệu, kinh phí, cách tiến hành, sản phẩm và phân công công việc trong nhóm.
Bước 3: Thực hiện dự án: HS thu thập các dữ liệu từ sách báo, internet, quan sát, điều tra, phỏng vấn,..., để phân tích bằng cách lập bảng biểu, so sánh và đối chiếu, giải thích các nguyên nhân, sắp xếp nội dung để tạo sản phẩm.
Bước 4: Trình bày sản phẩm dự án: Sản phẩm của DA có thể được trình bày giữa trong lớp, có thể giới thiệu trước toàn trường hay với cộng đồng dưới hình thức văn bản, powerpoint, kịch tiểu phẩm, áp phích, mô hình,... .
Bước 5: Đánh giá dự án: GV và HS đánh giá (tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng) quá trình thực hiện và kết quả DA, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các DA tiếp theo.
Để DHDA hiệu quả thì nội dung chủ đề DA cần gắn với thực tiễn, cập nhật vấn đề mang tính thời sự diễn ra xung quanh HS liên quan đến nội dung bài học. Nhiệm vụ DA phù hợp với trình độ và khả năng, hứng thú của HS, có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng thực tiễn nên tập trung vào các tư duy bậc cao. DHDA thường được thực hiện trong thời gian dài (vài ngày đến vài tuần), nếu kết hợp thêm các hoạt động trực tuyến sẽ được thực hiện dễ dàng và hiệu quả hơn. Việc tự kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh cần được thực hiện trong tất cả các bước của DHDA.
1.5.1.2. Dạy học hợp tác Khái niệm, đặc điểm
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ. Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ ý, được duy trì ổn định hoặc thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau bằng phiếu giao việc [57].
DH hợp tác với sự tương tác lẫn nhau một cách tích cực giữa các HS và sự ràng buộc trách nhiệm cá nhân - nhóm giúp HS tích cực, chủ động trong xây dựng kiến thức mới và rèn luyện các kĩ năng mà một HS khó thực hiện được, tăng cường đoàn kết và phát triển các kĩ năng xã hội (tổ chức và lập kế hoạch, lắng nghe, chấp nhận và phản hồi ý kiến người khác, nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ,… ), tăng cường đánh giá đồng đẳng và tự đánh giá trong nhóm HS.
Quy trình tổ chức dạy học hợp tác
- Bước 1: Giao nhiệm vụ học tập: GV nêu vấn đề, tổ chức nhóm (theo NL, sở thích, chỗ ngồi hoặc ngẫu nhiên,… ), sau đó giao nhiệm vụ, hướng dẫn cách làm việc.
- Bước 2: Hợp tác thực hiện các nhiệm vụ học tập: HS phân công trong nhóm, các cá nhân làm việc độc lập rồi thảo luận trong nhóm theo nhiệm vụ được giao.
- Bước 3: Trình bày và đánh giá kết quả của hoạt động hợp tác: Đại diện các nhóm lần lượt trình bày kết quả, cả lớp thảo luận chung. GV chốt lại kết quả và đưa ra đáp án chuẩn cho các nhiệm vụ.
Để việc tổ chức DH hợp tác hiệu quả GV cần lưu ý: các nhiệm vụ cần rõ ràng, cụ thể, đơn nghĩa; phân bố thời gian hợp lý cho các hoạt động; bố trí không gian lớp học và sĩ số học sinh vừa phải; kết hợp với các KTDH như: trạm, góc, phòng tranh, khăn trải bàn, mảnh ghép,… để hạn chế sự ỷ lại trong nhóm.
1.5.1.3. Sử dụng trò chơi dạy học Khái niệm, đặc điểm
Trò chơi là hoạt động chơi có luật, có tính cạnh tranh và thách thức đối với người chơi, các trò chơi đều có quy tắc, nhiệm vụ và yêu cầu tức là có tổ chức và thiết kế. Theo [23]: Trò chơi DH là những trò chơi giáo dục được lựa chọn, sử dụng để DH, tuân thủ nội dung, mục đích, nguyên tắc và PPDH. Chúng tôi quan niệm: Trò chơi DH là những trò chơi được lựa chọn và sử dụng để dạy học, gắn với mục tiêu và nội dung có chức năng tổ chức, hướng dẫn và động viên HS tích cực, chủ động lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng, thái độ,... và đạt được các mục tiêu dạy học đề ra. Các quy tắc, luật chơi và quan hệ trong trò chơi DH được tổ chức tương đối chặt chẽ trong khuôn khổ các nhiệm vụ hướng vào mục tiêu, nội dung học tập.
Sử dụng trò chơi vào trong DH có thể tạo ra những yếu tố tác động tích cực: thu hút, khuyến khích sự tham gia, thúc đẩy kĩ năng giải quyết vấn đề ở HS, mỗi HS có
thể trải nghiệm theo cách riêng (theo tốc độ, mức độ, thời gian trải nghiệm khác nhau…); nhận được những phản hồi về kết quả chơi để điều chỉnh quá trình học tập.
Quy trình tổ chức trò chơi dạy học
Việc tổ chức trò chơi dạy học thường được tiến hành qua các bước sau:
- Giới thiệu trò chơi: Thông báo tên và mục tiêu của trò chơi, phổ biến cách chơi, luật chơi, yêu cầu và kỷ luật, thời gian chơi cho HS.
- Tổ chức đội chơi: Chia các đội chơi, bố trí vị trí, đội hình.
- Điều khiển trò chơi: GV sử dụng các khẩu lệnh/ động lệnh cho phép trò chơi bắt đầu, theo dõi và giám sát các hoạt động chơi của cá nhân và các đội.
- Đánh giá kết quả trò chơi và trao thưởng: GV công bố kết quả chơi khách quan, công bằng, chính xác, phân tích ưu điểm, hạn chế để các HS rút kinh nghiệm. Động viên, khích lệ tinh thần của HS hoặc tuyên dương, khen thưởng bằng vật chất.
- Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi (các kiến thức, kĩ năng, thái độ… đạt được thông qua trò chơi), có thể được tiến hành ngay trong quá trình thảo luận, công bố đáp án của trò chơi.
Những năm gần đây, xuất hiện thêm các trò chơi DH dựa trên nền tảng công nghệ
- Gamification. Gamification nếu được thiết kế tốt (đảm bảo sự hài hòa giữa các yếu tố nội dung, tính sư phạm, công nghệ) sẽ cung cấp các cấp độ cá nhân hóa để hỗ trợ quá trình học tập, phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề, tự định hướng hành động của HS.
1.5.2. Một số kĩ thuật dạy học tích cực
1.5.2.1. Kĩ thuật KWL Khái niệm, đặc điểm
KWL là sơ đồ hệ thống các kiến thức đã biết liên quan đến bài học, các kiến thức muốn biết và các kiến thức đã học được sau bài học [6]. KWL được sử dụng trong DH nhằm giúp HS tự xác định mục tiêu, động cơ/nhiệm vụ học tập và tự đánh giá sau mỗi nội dung/bài học/chủ đề thông qua việc xác định kiến thức, kinh nghiệm đã biết có liên quan đến nội dung học tập, xác định nhu cầu về kiến thức mới và đánh giá kết quả học tập sau khi học xong, từ đó tự điều chỉnh cách học của mình.
Quy trình tổ chức
- Sau khi đặt vấn đề, giới thiệu nội dung bài học, GV phát phiếu KWL hoặc yêu cầu HS/nhóm HS kẻ sơ đồ KWL vào vở ghi.
- Yêu cầu HS điền vào cột K những điều đã biết liên quan đến nội dung bài học.
Sau đó viết vào cột W những gì các em muốn biết về nội dung bài học hoặc chủ đề.
- Sau khi kết thúc bài học/chủ đề, HS điền vào cột L những gì đã học được thông qua đối chiếu với điều đã biết, muốn biết để đánh giá sự tiến bộ của bản thân.
1.5.2.2. Kĩ thuật các mảnh ghép Khái niệm, đặc điểm
Kĩ thuật các mảnh ghép là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm [6] nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích thích sự tham gia tích cực của HS, nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác, tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS.
Quy trình tổ chức dạy học
Quá trình tổ chức DH sử dụng kĩ thuật các mảnh ghép trải qua 2 giai đoạn: nhóm chuyên sâu (mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ nghiên cứu những nội dung học tập khác nhau) và nhóm mảnh ghép (HS trình bày cho các HS khác trong nhóm về kết quả nhiệm vụ ở nhóm chuyên sâu và sau đó cùng nhau thực hiện nhiệm vụ phức hợp mới) được thể hiện trong hình 1.16 dưới đây:
Hình 1.16. Các giai đoạn tổ chức DH sử dụng kĩ thuật các mảnh ghép
Khi tổ chức DH cần chú ý: Nhiệm vụ nhóm chuyên sâu cần được lựa chọn dựa trên nội dung bài học và đi vào chiều sâu của vấn đề, độc lập ở mức HS có thể tìm hiểu được; GV cần xác định các yếu tố hỗ trợ cần thiết và kiểm soát để đảm bảo HS hoàn thành được nhiệm vụ; nhiệm vụ ở nhóm mảnh ghép phải là nhiệm vụ phức hợp, có thể giải quyết được trên cơ sở kiến thức đã có ở giai đoạn nhóm chuyên gia.
1.5.2.3. Kĩ thuật sơ đồ tư duy Khái niệm, đặc điểm
Sơ đồ tư duy (SĐTD) được phát triển bởi Tony Buzan vào cuối thập niên 60 (thế kỉ XX) là một công cụ tổ chức, hỗ trợ tư duy và là một hình thức ghi chép với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp, tương thích với cấu trúc, hoạt động và chức năng của não bộ. Qua đó giúp HS tổ chức, giải thích và kết nối thông tin một cách hệ thống. GV và HS có thể sử dụng SĐTD trong các tình huống DH như: tóm tắt nội dung chính, hệ thống kiến thức cho một chủ đề/bài học; thiết kế, sắp xếp các ý tưởng; lập kế hoạch TH hay ghi chép khi nghe giảng.
Quy trình dạy học sử dụng sơ đồ tư duy
- GV chuyển giao nhiệm vụ thiết kế SĐTD.
- HS sử dụng giấy, bút hoặc phần mềm để vẽ SĐTD, bắt đầu từ một từ khóa/hình vẽ trung tâm rồi đến các nhánh chính phản ảnh các nội dung lớn của chủ đề, tiếp theo là các nhánh phụ kế tiếp. Sau đó, HS bổ sung các hình ảnh, hình vẽ, màu sắc, đường nét để hoàn thiện SĐTD.
- GV tổ chức HS trình bày SĐTD, nhận xét và đánh giá.
1.5.3. Microsoft Teams
Giới thiệu về Microsoft Teams
Microsoft Teams là trung tâm cộng tác và truyền thông trong Office 365 ra mắt năm 2017 [78] tích hợp nhiều tính năng như: tạo nhóm và kênh (team và chanel), trao đổi (chat), gọi (calls audio/video), họp trực tuyến (meeting), chia sẻ tài liệu (file), giao và phản hồi bài tập (assigments), sổ tay lớp học (class notebook), cập nhật các hoạt động (activity),… giúp tạo nên một nền tảng hội thoại tối ưu, một không gian làm việc nhóm trực tuyến tập trung và hiệu quả. Ngoài ra, Teams cũng dễ dàng tích hợp với nhiều phần mềm tiện ích như: OneDrive (lưu trữ tài liệu online), Word, Excel (công cụ văn phòng cơ bản), Planner, Flipgrid, Kahoot, Forms, MakeCode, Quizlet,…. và có chức năng bảo mật cao. Trong DH, Teams có thể đáp ứng được yêu cầu của một nền tảng học tập trực tuyến tương tác cao.
Một số tính năng cơ bản của MS Teams sử dụng trong dạy học:
- Tạo nhóm lớp học: Teams cho phép tạo ra 250 nhóm lớp học trực tuyến với số lượng thành viên trong mỗi nhóm lớp lên tới 5.000 người, có 4 loại nhóm có thể được tạo ra với các mục đích khác nhau, để DH GV có thể chọn loại nhóm “lớp học”.