nhóm công tác liên Bộ để triển khai các công việc cần thiết để phát triển thị trường repo.
Việt Nam cần áp dụng thống nhất một Hợp đồng repo chuẩn (MRA) trên TTTT. Việc áp dụng các hợp đồng riêng cho từng ngành càng làm tăng thêm sự manh mún và bỏ qua lợi ích của việc tiêu chuẩn hoá văn bản. NHNN phối hợp cùng các đơn vị liên quan nghiên cứu, đưa vào áp dụng hợp đồng repo chuẩn quốc tế (có thể là GMRA 2000) hoặc một hợp đồng repo chuẩn áp dụng đối với các giao dịch repo trong nước qua NVTTM và khuyến nghị áp dụng hợp đồng repo chuẩn theo điều kiện TTTT tại Việt Nam thì cần phải thiết lập một hợp đồng repo theo tiêu chuẩn quốc tế áp dụng đối với các giao dịch repo xuyên quốc gia.
NHNN rà soát thuôn khổ pháp lý và điều tiết hiện hành cho hoạt động repo. Thời gian đầu, các quy định về thấp chấp, các tổ chức, đinh chế được phép tham gia hoạt động repo nên tương đối chặt, dần dần sẽ nới lỏng hơn khi có kinh nghiệm và tự và tự tin hơn. Đồng thời cần qui định các Nhà giao dịch chính bảo lãnh toàn bộ các đợt phát hành tín phiếu kho bạc và bắt buộc phải tham gia bỏ thầu bán tín phiếu kho bạc, các định chế tài chính và các cá nhân không được phép tham gia thị trường sơ cấp có thể mua tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp. Qua đó nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường tín phiếu kho bạc.
Việc phát triển thị trường repo đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của các đơn vị liên quan (NHNN, BTC, các thành viên khác trên thị trường, TCTD, công ty chứng khoán,..) để tổ chức thị trường repo khoa học, phù hợp và phân công công việc hợp lý giữa các đơn vị để tránh chồng chéo nhằm phát triển thị trường này đồng bộ, hiệu quả, tiết kiệm chi phí và đặc biệt là để quản lý và can thiệp thị trường khi cần thiết nhằm đạt được mục tiêu của cơ quan quản lý Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên thị trường trong giao dịch.
Phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, đẩy mạnh hoạt động của các công ty xếp hạng tín nhiệm để giúp cho việc định giá GTCG được chính xác và hạn chế rủi ro hoạt động của các thành viên thị trường, đồng thời tạo thuận lợi cho việc phát triển các công cụ tài chính giao dịch trên TTTT như thương phiếu.
Để phát triển thị trường repo, trước hết cần phát triển thị trường sơ cấp GTCG. Vấn đề này đòi hỏi sự nỗ lực không những từ NHNN, mà còn cần sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan liên quan, đặc biệt là BTC. Việc phát hành GTCG làm
công cụ cho thị trường cần thực hiện theo trật tự từ rủi ro thấp đến rủi ro cao. Việt Nam cũng cần chú trọng hơn nữa đến việc mở rộng GTCG do các doanh nghiệp phát hành GTCG làm công cụ của TTTT. Việc áp dụng Hợp đồng mua lại chuẩn trong giao dịch repo là điều kiện cần thiết để phát triển thị trường này.
Về việc không cho phép các TCTD tham gia giao dịch repo trên thị trường vốn, chỉ được giao dịch trên thị trường trái phiếu để ngăn ngừa tình trạng vốn của các ngân hàng đổ vào thị trường cổ phiểu cũng là một trong những giải pháp quan trọng đối với thị trường Repo của Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Phát Triển Tttt Ở Việt Nam Sau Khi Gia Nhập Wto
- Những Điều Kiện Cần Thiết Để Phát Triển Tttt Ở Việt Nam Sau Khi Gia Nhập Wto
- Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Và Quản Trị Vốn Của Các Nhtm Việt Nam
- Nâng Cao Năng Lực Điều Hành, Tính Độc Lập Và Vai Trò Kiểm Soát Tttt Của Nhnn
- Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Đáp Ứng Yêu Cầu Phát Triển Của Tttt
- Phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - 28
Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.
3.2.2. Nhóm giải pháp thúc đẩy cầu trên thị trường tiền tệ
3.2.2.1. Thành lập Hiệp hội các nhà đầu tư trên thị trường tiền tệ. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội, đặc biệt là Hiệp hội ngân hàng nhằm thúc đẩy TTTT phát triển.
-Việc thành lập Hiệp hội các nhà đầu tư kinh doanh trên thị trường tiền tệ là một vấn đề mang tính phổ biến trên thế giới. Nó có đặc trưng là một hình thức tổ chức nghề nghiệp, nhằm bênh vực và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các nhà đầu tư. Bằng con đường của Hiệp hội, có thể tham gia học hỏi kinh nghiệm cũng như đào tạo từ các nhà đầu tư tài chính – tiền tệ quốc tế, qua đó không ngừng nâng cao khả năng kinh doanh và hạn chế các rủi ro trong hoạt động trên trị trường.
-Cần tiến hành ngay việc nghiên cứu để chuyển đổi chức năng của Hiệp hội ngân hàng thành một tổ chức tự điều tiết. Mô hình này cũng tương tự như Hiệp hội các tổ chức đầu tư trên thị trường tài chính (NAFMII) của Trung Quốc. Một thị trường tài chính phát triển và thành công thì sẽ cần có một tổ chức tự điều tiết hiệu quả và đóng vai trò giám sát hành vi ứng xử của các thành viên và ban hành các quy chuẩn nghiệp vụ trên thị trường. Tổ chức này sẽ hỗ trợ cho các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ. Với việc thành lập tổ chức tự điều tiết thì một số vấn đề về thị trường như các quy tắc ứng xử trên thị trường có thể do tổ chức tự điều tiết này giám sát và thúc đẩy, tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý tập trung vào các vấn đề pháp lý và an toàn cho hệ thống. Việc tổ chức tự điều tiết này tham gia vào TTTT Việt nam có vai trò quan trọng, do đó, cần bắt đầu tiến hành ngay việc nghiên cứu. Việc chuyển đổi chức năng của Hiệp hội như trên sẽ giúp sớm giải quyết tình trạng thị trường hoạt động nhưng chưa có một quy tắc ứng xử chung như hiện nay.
Trong khuôn khổ hỗ trợ kỹ thuật Ngân hàng-Tài chính III, tiểu chương trình 2 so ADB tài trợ, Ngân hàng ADB đang thảo luận với NHNN về đề xuất nghiên
cứu khả thi của việc chuyển đổi Hiệp hội ngân hàng Việt Nam thành một tổ chức tự điều tiết.
- Về cơ bản, hoạt động của thị trường dựa trên nguyên tắc tự nguyện và thoả thuận giữa các thành viên, tuy nhiên, cần phải ban hành một bộ quy tắc ứng xử cho các thành viên thị trường quy định về các thuật ngữ giao dịch, đạo đức của giao dịch viên, xác nhận giao dịch, bảo mật thông tin, hình thức xử lý đối với thành viên vi phạm. . . Khi các thành viên cùng chấp thuận bộ quy tắc ứng xử này thì nó là văn bản có tính pháp lý để xử lý các tranh chấp phát sinh. Việc ban hành văn bản này nên do các Hiệp hội ban hành với sự tham gia phối hợp soạn thảo của NHNN và các TCTD.
3.2.2.2. Thành lập công ty chiết khấu các giấy tờ có giá
Chiết khấu là một hình thức cấp tín dụng theo đó các tổ chức tín dụng nhận các chứng từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá của chứng từ nhận chiết khấu trừ đi phần lợi nhuận và chi phí mà ngân hàng được hưởng. So với hình thức cho vay, chiết khấu có điểm khác biệt là :
-Không cần tài sản thế chấp mà sử dụng ngay chứng từ nhận chiết khấu làm đảm bảo tín dụng.
-Ngân hàng thu lãi trước khi phát tiền vay bằng cách khấu trừ vào mệnh giá.
-Qui trình xem xét cấp tín dụng đơn giản và nhanh chóng hơn so với cho vay.
Nhằm tạo cho thị trường giấy tờ có giá hoạt động theo đúng nghĩa của nó và để các công cụ thị trường tiền tệ trở thành hàng hoá thực sự thì điều cần thiết phải thành lập công ty chiết khấu các giấy tờ có giá. Công ty này có nhiệm vụ chiết khấu các giấy tờ có giá của bất cứ thành viên nào có nhu cầu. Như vậy, sẽ rất linh hoạt trong việc chuyển đổi giấy tờ có giá khi chủ sở hữu cần tiền ngay. Điều này làm tăng thêm tính thanh khoản của các giấy tờ có giá. Tạo điều kiện để hoạt động của thị trường tiền tệ được phát triển.
Công ty chiết khấu các giấy tờ có giá nằm trong phạm vi quyền hạn và được điều chỉnh bởi luật và chịu sự quản lý của NHTW. Hiện nay việc chiết khấu các giấy tờ có giá vẫn đang được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chiết khấu các giấy tờ có giá đối với các NHTM. Các NHTM chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá khác.
Chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu gồm có 2 loại là hối phiếu và lệnh phiếu.Theo Pháp lệnh thương phiếu của Việt Nam, Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
Trong thương mại hối phiếu do người xuất khẩu ký phát để đòi tiền người trả tiền, có thể là người nhập khẩu hoặc ngân hàng phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập khẩu.Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại được thực hiện dưới hình thức khách hàng sẽ chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận một khoản tiền thấp hơn mệnh giá của thương phiếu. Số tiền chênh lệch giữa mệnh giá thương phiếu so với số tiền khách hàng nhận được gọi là lãi chiết khấu và phí hoa hồng.
Chiết khấu thương phiếu vừa giống như hành vi mua bán chứng khoán ở chỗ chuyển quyền đòi nợ ở con nợ đồng thời vừa giống tín dụng ở chỗ nó không đơn thuần là hành vi mua bán vì nếu ngân hàng không đòi được nợ thì sẽ có quyền đòi nợ ở người xin chiết khấu. Như vậy, chiết khấu thương phiếu là một đồng được phép truy đòi. Do vậy, thực chất chiết khấu thương phiếu là hình thức tín dụng ngắn hạn. Cách thức thu lãi được thực hiện ngay khi chiết khấu bằng cách khấu trừ vào mệnh giá.
Chiết khấu chứng từ có giá khác
Ngoài thương phiếu , các chứng từ có giá khác như Trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước, kỳ phiếu, sổ tiền gửi tiết kiệm cũng được ngân hàng thực hiện chiết khấu. Đối với trái phiếu và tín phiếu kho bạc nhà nước người hưởng lợi là người mua, còn người thanh toán là kho bạc nhà nước. Khi chiết khấu, cần phân biệt hai loại: Trái phiếu chiết khấu hay trái phiếu không hưởng lãi định kỳ và trái phiếu được hưởng lãi định kỳ.
Trái phiếu chiết khấu là loại trái phiếu mà người mua chỉ trả một số tiền nhỏ hơn mệnh giá (phần chênh lệch này chính là lãi trái phiếu) và khi đến hạn thanh toán, kho bạc sẽ trả cho người mua một số tiền bằng mệnh giá. Về phương pháp tính chiết khấu của trái phiếu chiết khấu cũng giống như tính chiết khấu thương phiếu.Trái phiếu được hưởng lãi định kỳ là loại trái phiếu mà người mua nó phải trả cho kho bạc một số tiền bằng mệnh giá, đổi lại người mua sẽ nhận lợi tức định kỳ và khi đến hạn thanh toán họ sẽ nhận được số tiền bằng mệnh giá của trái phiếu.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập, tốc độ luân chuyển của đồng tiền ngày càng nhanh, quy mô giao dịch ngày càng lớn. Vì vậy cần thiết phải hình thành những công ty chuyên môn hóa đảm nhận chức năng chiết khấu giấy tờ có giá để có tác dụng kích cầu và tạo thanh khoản cho thị trường.
3.2.2.3. Thành lập công ty môi giới tiền tệ. Nghiên cứu về khả năng thành lập hệ thống môi giới tiền tệ tại Việt Nam; Hỗ trợ thành lập hệ thống môi giới tiền tệ tại Việt Nam.
Việc thành lập các công ty môi giới tiền tệ sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với mọi thành viên tham gia thị trường TTTT. Các công ty này sẽ cung cấp các thông tin về lãi suất, tỷ giá, thời hạn, khối lượng... ở trong nước và quốc tế, của các đối tác đi vay, cho vay trên thị trường. Các thông tin này được công ty môi giới cung cấp kịp thời, hiệu quả, tin cậy, đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng.
Các công ty môi giới tiền tệ sẽ hoạt động môi giới nhiều loại tiền khác nhau và duy trì hoạt động bằng cách thu phí từ các khách hàng với mức phí tương đối thấp. Từ tháng 4/2004, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quy chế về môi giới tiền tệ, chính thức công nhận và đưa vào khuôn khổ hoạt động này trên thị trường tiền tệ. Tuy nhiên tới nay đã tròn 5 năm vẫn chưa có một công ty nào được thành lập, mặc dù tiềm năng và hiệu quả của mô hình công ty này được một số chuyên gia trong ngành ngân hàng đánh giá cao…
Theo Quyết định số 351/2004/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước, môi giới tiền tệ được xác định “là hoạt động cung ứng dịch vụ của các tổ chức tín dụng để dàn xếp, tạo điều kiện cho các giao dịch bao gồm các giao dịch vay, cho vay, nhận tiền gửi, gửi tiền; mua, bán giấy tờ có giá; mua, bán ngoại tệ và các giao dịch khác giữa các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính nước ngoài, có thu phí môi giới”.
Lợi ích của việc thành lập công ty môi giới tiền tệ
Về bản chất, công ty môi giới tiền tệ đóng vai trò nhà trung gian trên thị trường tiền tệ. Công ty này sẽ là đầu mối thông tin, cung cấp giá cả, tổng hợp và thông báo cho khách hàng các mức giá chào mua, bán (đối với thị trường ngoại hối) và vay, cho vay (đối với thị trường tiền tệ) cạnh tranh nhất. Các ngân hàng sẽ là đối tượng hưởng lợi đầu tiên và trực tiếp bởi thông qua công ty môi giới tiền tệ, các ngân hàng sẽ có thể tham gia giao dịch một cách nhanh nhất và chỉ cần qua một đầu mối là công ty này, ngân hàng sẽ nắm được toàn bộ thông tin về tình hình cung, cầu vốn trên thị trường.
Bên cạnh đó, tính chuyên nghiệp trong hoạt động của thị trường tiền tệ cũng sẽ được nâng lên một cách đáng kể với phương thức giao dịch tập trung qua các công ty môi giới tiền tệ. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có thể xem đây như một kênh tiếp cận vốn với chi phí thấp ngoài kênh ngân hàng.
Để được cấp giấy phép hoạt động môi giới tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước quy định các tổ chức tín dụng phải đáp ứng các điều kiện cơ bản như có bộ phận hoặc công ty trực thuộc thực hiện môi giới thuộc tổ chức tín dụng; người quản trị, điều hành của bộ phận hoặc công ty trực thuộc thực hiện môi giới có trình độ chuyên môn về kinh tế, tài chính, ngân hàng phù hợp với hoạt động môi giới; có kiến thức và kinh nghiệm về kiểm soát rủi ro; có phương án thực hiện môi giới khả thi; có hệ thống kiểm soát nội bộ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước...
Theo một chuyên gia trong ngành ngân hàng, việc thành lập một công ty kiểu này không quá khó: vốn không cần quá nhiều vì công ty môi giới hoạt động chủ yếu mang tính dịch vụ; yếu tố công nghệ cũng không phải là trở ngại vì công nghệ này khá phổ biến tại các thị trường tài chính phát triển trên thế giới và việc chuyển giao công nghệ không quá khó. “Quan trọng nhất là phải tập hợp được một đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm, có uy tín và có chuyên môn trong các loại hình đầu tư. Yêu cầu của hoạt động môi giới là phân tích chính xác khả năng của các nguồn vốn và năng lực của các đối tượng cần vốn; phải nắm được thông tin về cung - cầu trên thị trường vốn để xây dựng công ty thành một đầu mối thông tin tin cậy”.
Tuy nhiên, hiện nay do điều kiện thị trường tiền tệ Việt Nam chưa phát triển nên vẫn chưa có sự xuất hiện của công ty này. Các định chế tài chính chưa thật sự chú trọng đến hoạt động môi giới trên thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng vẫn còn “trồi sụt”, chưa giải quyết triệt để vốn khả dụng cho các ngân hàng thương mại là hai lý do chính cho việc thiếu vắng công ty môi giới tiền tệ. Trong khi đó, hoạt động môi giới tiền tệ được thực hiện chủ yếu cho các thị trường tiền tệ đã phát triển và tuân theo các quy luật của thị trường ở Việt Nam mới đang ở bước sơ khai. Chắc chắn là khi thị trường phát triển đến một “ngưỡng” nào đó thì sự xuất hiện của các công ty này sẽ là điều tất yếu.
3.2.2.4. Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin trên thị trường tiền tệ.
- Xây dựng các báo cáo, bản tin định kỳ về hoạt động TTTT để phục vụ cho công tác chỉ đạo điều hành của NHNN và công bố công khai, thường xuyên và kịp thời các thông tin về TTTT cho thành viên thị trường thông qua website hoặc các phương tiện thích hợp khác.
- Nghiên cứu cách thức cung cấp thông tin cho thị trường về; lãi suất, dự báo vốn khả dụng, lượng tiền cung ứng, thông tin về TTTT, kế hoạch đấu thầu,…
- Thiết lập cơ chế minh bạch trong việc chuyển tín hiệu của NHNN về điều chỉnh vốn khả dụng và điều hành CSTT (thông qua đối thoại thường xuyên giữa NHNN với các thành viên thị trường). Công bố thông tin thị trường theo định kỳ. Giải thích kịp thời về mục tiêu và mục đích khi NHNN thay đổi chính sách tiền tệ.
- Phối hợp với Bộ Tài chính hình thành kênh trao đổi thông tin, dữ liệu về hoạt động TTTT (thông qua nhóm công tác liên bộ và xây dựng hệ thống thông tin nối mạng để chia sẻ thông tin cần thiết) để thực hiện phân tích, dự báo kịp thời diễn biến TTTT, qua đó, đưa ra các chính sách can thiệp thị trường kịp thời, phù hợp.
3.2.3. Nhóm giải pháp liên quan đến hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường tiền tệ.
3.2.3.1. Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Nhìn nhận một cách khái quát, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải đứng trước những biến đổi lớn về mặt tài chính – tiền tệ trên nhiều phương diện: cam kết và kiểm soát giá cả, chống bán phá giá, thực hiện lộ trình giảm thuế quan, xóa bỏ trợ cấp giá nông sản, vấn đề tỷ giá hối đoái, sự thâm nhập của quốc tế vào thị
trường và dịch vụ tài chính – tiền tệ, cạnh tranh thu hút vốn đầu tư, chính sách tài khóa. Những tác động trên ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động bình thường của nền kinh tế VN. Lưỡng viện Quốc hội Mỹ cũng đã thông qua qui chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), tuy mở ra triển vọng lớn trong thương mại song phương, nhưng trong đó cũng chứa đựng những thách thức tiềm ẩn.
Song những thách thức lớn nhất vẫn là ứng xử một cách năng động các mối quan hệ tài chính – tiền tệ đằng sau các mối quan hệ thương mại đó: thuế quan, giá cả, trợ giá, tỷ giá, đầu tư, thị trường tài chính, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa (NSNN)… để hướng tới cạnh tranh và phát triển nền kinh tế VN lành mạnh, bền vững. Bởi đó cũng là những công cụ nhạy cảm nhất, những huyết mạch quan trọng nhất và nội dung cốt lõi trong tự do hóa thương mại hậu WTO của VN. Do vậy sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cần có, những đối sách tài chính – tiền tệ hữu hiệu để ứng phó một cách tương thích cho sự ổn định và tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam với tiến trình toàn cầu hóa kinh tế.
Lần đầu tiên VN cam kết thực hiện tự do hóa các dịch vụ tài chính – tiền tệ khi gia nhập WTO. Sự kiện này có tính “cách mạng” trong chính sách mở rộng cửa với quốc tế. Tuy nhiên cũng cần có những bước đi thận trọng với những đối sách linh hoạt để tránh những “cơn sốc” hay “khủng hoảng” đối với kinh tế VN trên con đường hội nhập, cụ thể như sau.
1 Đối với lĩnh vực ngân hàng
Hậu WTO phải từng bước thực hiện tự do các dịch vụ ngân hàng, do vậy Việt Nam cần có các chính sách và giải pháp để thích ứng với những biến động đó như:
- Kết hợp đồng bộ, việc sửa đổi hệ thống pháp luật điều chỉnh hàng loạt về chính sách môi trường kinh tế, cải cách hành chính để mở cửa cho ngân hàng nước ngoài đầu tư, cởi bỏ mọi hạn chế về quyền sở hữu, hình thức hoạt động, kể cả huy động và giao dịch với các đối tác tiền gởi bằng VND và thiết lập các chi nhánh ngân hàng tại các địa phương; mở rộng việc cung cấp các dịch vụ cao cấp, dịch vụ chăm sóc khách hàng, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt … trong đó, cần nghiên cứu nâng tỷ lệ sở hữu của các cổ đông nước ngoài tham gia đầu tư vào các NHTMVN (trên 30%) nhằm thu hút vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài vào thị trường tài chính VN.