Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Và Quản Trị Vốn Của Các Nhtm Việt Nam


Để thực hiện các cam kết của Việt Nam với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, chủ động hội nhập hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới, nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển thị trường tiền tệ ở nước ta, thì yêu cầu làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của hệ thống ngân hàng đang được đặt ra hết sức khẩn trương và cấp bách. Nếu thực hiện đúng và có hiệu quả chương trình cơ cấu lại hệ thống NHTM thì sẽ tạo tiền đề góp phần phát triển thị trường tiền tệ.

Đối với các NHTM Nhà nước, Chính phủ đã phê duyệt Đề án củng cố, tái cơ cấu lại hệ thống với nội dung cơ bản là: Lành mạnh hoá tổ chức của các ngân hàng trên cơ sở cơ cấu lại nợ và áp dụng các biện pháp ngăn ngừa phát sinh mới các khoản nợ xấu; tăng vốn điều lệ của các NHTM NN; tách bạch rõ ràng chức năng kinh doanh của các NHTM với việc cho vay theo chính sách của Nhà nước thông qua việc thành lập ngân hàng chính sách, tạo điều kiện cho các NHTM NN thực sự hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường. Từng ngân hàng cơ cấu lại tổ chức bộ máy, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng cũng như năng lực quản trị, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ cán bộ để phù hợp với yêu cầu hoạt động của mình, trong đó có tính đến xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.

Đối với các NHTM cổ phần, công tác chấn chỉnh và củng cố lại mặc dù có nhiều phức tạp, song vẫn đang được chỉ đạo và thực hiện theo đúng tinh thần đề án đã được Chính phủ phê duyệt. Các ngân hàng hoạt động yếu kém, không có khả năng phát triển đã và đang triển khai giải thể hoặc sáp nhập với các ngân hàng khác. Phương châm chính là xây dựng hệ thống NHTMCP vững mạnh, an toàn, có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế, phù hợp với xu hướng chung của khu vực và quốc tế.

3.2.1.3. Nâng cao năng lực tài chính và quản trị vốn của các NHTM Việt Nam

Quản trị và điều hành vốn phải mang đặc điểm thị trường, đồng thời phải bảo đảm được tính tập trung. Từ đó, nâng cao chất lượng quản lý vốn khả dụng, nhằm giúp các NHTM chủ động, linh hoạt tham gia hoạt động trên thị trường tiền tệ, đặc biệt khắc phục được tính thời vụ cao của thị trường tiền tệ. Việc nâng cao năng lực quản trị của các TCTD Nhà nước sau khi cổ phần hoá sẽ được thực hiện nhanh nhất và hiệu quả nhất thông qua sự hợp tác và trợ giúp của các đối tác nước ngoài. Kiện toàn bộ máy tổ chức, quản trị nội bộ; thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và chế độ báo cáo thường xuyên.


Theo các cam kết, khi gia nhập WTO, lĩnh vực ngân hàng sẽ được mở cửa dần theo lộ trình 7 năm. Kể từ năm 2006, Việt Nam đã phải tiến hành gỡ bỏ các hạn chế các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đây sẽ là một sức ép lớn đối với hệ thống ngân hàng trong nước, buộc các Ngân hàng phải tăng tốc thực hiện các kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh để ngân hàng có thể đối mặt với những thách thức sống còn.

Thời gian qua, thế giới đã chứng kiến nhiều lần chao đảo bởi một số vụ bê bối tài chính của các ngân hàng lớn như Citi Bank của Mỹ, NAB của Australia. Nguyên nhân chính đều xuất phát từ năng lực tài chính của các ngân hàng. Điều đó cho thấy khi các ngân hàng có năng lực tài chính vững mạnh thì mới đảm bảo hoạt động kinh doanh ổn định, từ đó nền kinh tế cũng sẽ tăng trưởng vững chắc.

Yếu tố tài chính quan trọng nhất của là NHTM là vốn, bao gồm: Vốn pháp định và Quỹ dự trữ. Vốn ngân hàng là điều kiện cơ bản đảm bảo tiền gởi của khách hàng, một khi gặp rủi ro trong kinh doanh (như nợ khó đòi, lỗ trong nghiệp vụ chứng khoán thì vốn của ngân hàng là khoản bù đắp rủi ro đó và tạo khả năng thanh toán các khoản nợ của khách hàng).

Vốn pháp định là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp nếu là ngân hàng quốc doanh thì chủ sở hữu vốn là Nhà nước, nếu là ngân hàng cổ phần thì chính là các cổ đông đóng góp. Vốn pháp định của ngân hàng được ghi trong giấy phép hoạt động và điều lệ của ngân hàng, nó phải lớn hơn mức tối thiểu của nhà nước quy định.

Các quỹ dự trữ thì bao gồm:

Quỹ dự trữ: là vốn được trích từ lợi nhuận hàng năm để bổ sung vốn pháp định. Luật của Việt Nam qui định hàng năm phải tính 5% lợi nhuận ròng để lập quỹ này, còn mức tối đa do Ngân hàng Trung ương quy định.

Quỹ dự trữ đặc biệt: cũng là loại vốn được tính từ lợi nhuận để bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động. Hàng năm, ngân hàng phải trích 10% trên lợi nhuận ròng cho đến khi bằng vốn pháp định.

Ngoài ra ngân hàng còn có lợi nhuận chưa chia hết cho cổ đông hoặc các quỹ đặc biệt khác chưa sử dụng.


Từ những năm 1930 các nhà kinh tế đã đưa ra qui tắc "ngón tay cái" tức là quy tắc 10% vốn ngân hàng so với tài sản có. Ngoài ra người ta còn đưa ra một tỷ lệ liên quan giữa vốn ngân hàng so với tài sản rủi ro (Tài sản có trừ đi các ngân quỹ và trái phiếu kho bạc). Trong thực tế qui tắc 10% ít được ngân hàng thực hiện.

Nhưng việc xác định mối liên quan giữa vốn ngân hàng và tài sản có được các cấp quản lý ngân hàng quan tâm và tỷ lệ này được coi là một bộ phận của chính sách quản lý. Năm 1985 hệ thống dự trữ Liên bang Hoa kỳ đã đưa ra tỉ lệ này là 6% cho các ngân hàng lớn (trước đây chỉ 3%).

Nhiều nước đã qui định quan hệ giữa vốn ngân hàng và khối lượng tiền huy động như sau: Các ngân hàng không được phép huy động quá 20 lần so với vốn. Mặc dù vốn là yếu tố cơ bản để đánh giá về mặt tài chính của ngân hàng, nhưng ngoài yếu tố vốn ta cần phải tính đến hàng loạt các yếu tố khác như: thanh khoản của ngân hàng, cấu trúc rủi ro tích sản, tính chất biến động của các loại tiền gởi và chất lượng quản lý ngân hàng.

Theo quan điểm của Mỹ và một số nước phương Tây, muốn đánh giá một ngân hàng người ta sử dụng 5 chỉ tiêu:

Chỉ tiêu

Ghi chú

Tỷ lệ vốn

Các tỷ lệ về vốn (VSCH/TS, VCSH/Tài sản có …)

Chất lượng tài sản có

Chất lượng tín dụng và các khoản đầu tư

Chất lượng quản lý

Đội ngũ quản lý, nhân viên, mạng lưới, công nghệ…

Tiền lãi

Các tỉ số về thu nhập

Thanh khoản

Tính thanh khoản trên tài sản, trên cổ phiếu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.

Các cơ quan ngân hàng căn cứ vào các điều trên để chấm điểm và phân loại ngân hàng tốt, khá, yếu...

Đối với tài sản có

Trong quản lý tài sản có một mặc Ngân hàng thương mại phải tôn trọng các tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mặc khác phải tránh các rủi ro để tồn tại và kinh doanh có lãi.

Trong cơ chế thị trường các ngân hàng hoạt động trong môi trường đầy rủi ro và không chắc chắn, cũng như lãi suất tương lai và giá cả các loại chứng khoán sẽ ra sao là những điều khó lường trước. Vì thế, những nhà quản lý ngân hàng phải có tầm nhìn xa hơn những lý do kiếm lời đơn thuần.

Để duy trì khả năng thanh toán, một mặc Ngân hàng thương mại phải đảm bảo toàn bộ giá trị tài sản có phải lớn hơn các khoản nợ phải thanh toán ở mọi thời


điểm. Nếu trong kinh doanh vốn cho vay không có khả năng thu hồi và lỗ trong nghiệp vụ chứng khoán sẽ làm cho giá trị tài sản có xuống thấp hơn tài sản nợ và như vậy sẽ dẩn đến ngân hàng mất khả năng thanh toán, có thể phải đóng cửa hoặc phải bán tài sản cho ngân hàng khác. Thế nhưng, nếu xét về khối lượng tài sản có đủ trang trải tài sản nợ thì cũng chưa đủ để nói lên khả năng thanh toán của ngân hàng, mà còn phải tính đến thanh khoản tức là các tài sản có khả năng chuyển thành tiền ngay với khối lượng đủ để đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt, hết số thiếu trong thanh toán bù trừ hoặc những nhu cầu vay mượn chính đáng của các ngân hàng thân thuộc, đồng thời vẫn giữ được tỉ lệ dự trữ pháp định. Như vậy có thể xảy ra trường hợp một ngân hàng có đủ khả năng trừ nợ nhưng lại thiếu thanh khoản để trang trải các nợ tức thời, cũng coi như ngân hàng đó thiếu khả năng thanh toán và có nguy cơ dẫn đến phá sản.

Trong kinh doanh muốn đứng vững và cạnh tranh được thì ngân hàng phải giữ rủi ro trong giới hạn nhất định, phải đẫm bảo thanh khoản theo mức độ cần thiết trong kết cấu tài sản có và mức độ sinh lãi có thể chấp nhận được. Nếu quá chú trọng đến yếu tố này hoặc yếu tố khác thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả kinh doanh. Giả sử một ngân hàng chấp nhận rủi ro cao, thanh khoản thấp để mở rộng các nghiệp vụ sinh lời thì sẽ có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Ngược lại nếu thận trọng về rủi ro, nâng cao quá mức về thanh khoản thì sẽ dẩn đến lợi nhuận giảm và cái nguy hại hơn là làm cho khách hàng xa lánh, mất tin tưởng, bỏ đi nơi khác. Tất cả những điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả tài chính của ngân hàng.

Trong quản lý kết cấu tài sản có các ngân hàng thường tính toán và sắp xếp thứ tự ưu tiên như sau:

Dự trữ sơ cấp là các khoản mục về ngân quỹ tiền mặt tiền gởi ở Ngân 1


Dự trữ sơ cấp là các khoản mục về ngân quỹ tiền mặt, tiền gởi ở Ngân hàng Trung ương, tiền gởi các ngân hàng khác. Các khoản dự trữ này được sử dụng để dự


trữ theo quy định của Ngân hàng Trung ương và đáp ứng nhu cầu bất thường về tiền mặt cho khách hàng hoặc để thực hiện các khoản thanh toán cho ngân hàng khác trong việc thanh toán giữa các ngân hàng.

Dự trữ thứ cấp bao gồm các loại chứng khoán có khả năng chuyển thành tiền dể dàng như: trái phiếu kho bạc, giấy chấp nhận trả tiền của ngân hàng... Dự trữ thứ cấp được dùng để hổ trợ cho dự trữ sơ cấp về các nhu cầu rút tiền, thanh toán giữa các ngân hàng và vay mượn của khách hàng đã được dự kiến trước.

Dự trữ thứ cấp đã đáp ứng nhu cầu về thời vụ và chu kỳ đã dự kiến trước. Như ngân hàng hoạt động ở nông thôn đến vụ mùa có nhu cầu lớn về tín dụng và sau thời vụ thì giảm mạnh. Sau thời vụ nhu cầu tiền mặt để mua lúa rất lớn. Các ngân hàng hoạt động ở đô thị thì nhu cầu hoạt động dự trữ hàng hoá tăng mạnh trước Tết. Về công chúng thì vào lễ tết thì cần rút tiền để chi xài. Ngoài ra dự trữ thứ cấp còn được sử dụng để đáp ứng nhu cầu mang tính chu kỳ như trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, công việc làm ăn phát đạt nhu cầu tín dụng tăng, ngược lại trong thời kỳ suy thoái tín dụng thu hẹp.

Ngoài việc đáp ứng nhu cầu thời vụ và chu kỳ, dự trữ thứ cấp còn là nguồn bổ sung quan trọng để giải quyết những nhu cầu đột xuất về rút tiền, các khoản thanh toán lớn mà ngân hàng không thể dự kiến được.

Sau khi đã thực hiện đầy đủ các dự trữ sơ cấp và thứ cấp thì ngân hàng ưu tiên các nghiệp vụ sinh lời an toàn như công trái, thực hiện các khoản tín dụng ngắn hạn.

Trong nghiệp vụ tín dụng và đầu tư dài hạn ngân hàng phải thận trọng và phải tính đến nguồn vốn đáp ứng. Nếu như tỉ trọng các nguồn vốn dài hạn thấp trong lúc đó lại cấp tín dụng và đầu tư tín dụng với tỉ trọng cao thì sẽ gia tăng mức độ rũi ro. Vì vậy cần phải tính tỉ lệ hợp lý giữa cho vay và đầu tư dài hạn trong mối tương quan với các khoản xét theo thời hạn của tài sản nợ.

Đối với tài sản nợ

Theo cổ điển thì các ngân hàng xem bên nợ của bảng tổng kết tài sản là các nghiệp vụ đương nhiên không cần phải quản lý và kiểm soát mà chỉ cần sử dụng cái có sẳn đó cho thích hợp là đủ, có nghĩa là chỉ cần quản lý tài sản có. Tuy vậy, ngày nay các nhà ngân hàng đã bắt đầu quan tâm nhiều đến tài sản nợ và coi việc quản lý


tài sản nợ như là một yếu tố để nâng cao hiệu quả quản lý, cũng như tăng nguồn bổ sung đối với khả năng thanh toán của ngân hàng.

Quản lý tài sản nợ tức là sử dụng các nghiệp vụ bên nợ của bảng tổng kết tài sản để mở rộng các quỹ nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán như bù đắp các khoản dự trữ, hoặc điều tiết những nhu cầu mới về tín dụng. Như vậy, việc quản lý tài sản nợ là việc thu hút nhanh chóng các khoản tiền tệ trên thị trường để tạo khả năng thanh toán cho ngân hàng.

Các nước phát triển việc quản lý tài sản nợ được thực hiện thông qua việc mua bán chứng chỉ tiền gởi, các nguồn từ ngân hàng trung ương và từ các nguồn khác.

Kỹ thuật quản lý tài sản nợ là nhằm khai thác các nguồn bổ sung quan trọng về khả năng thanh toán của ngân hàng. Tuy nhiên, việc quản lý này chỉ là bổ sung, chứ nó không thay thế cho việc quản lý cho tài sản có. Nếu như chú trọng quá đến việc khai thác các nguồn bổ sung mà xem thường các khoản dự trữ thuộc tài sản có sẽ có hậu quả xấu trong hoạt động của ngân hàng, có thể dẩn đến khủng hoảng trầm trọng.

3.2.1.4. Nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo hoạt động ổn định của TTTT

Vấn đề nổi cộm hiện nay là còn một bộ phận tín dụng chất lượng chưa cao, đang thực sự đe dọa sự ổn định của thị trường tiền tệ. Nợ quá hạn có giảm song vẫn còn ở mức cao. Trước hết phải có những biện pháp đảm bảo nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Chẳng hạn như để hạn chế rủi ro tín dụng thì cần phải có Chính sách tín dụng hợp lý, sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, qui định các giới hạn tín dụng, tài sản thế chấp, trích quỹ dự phòng rủi ro...

Tốc độ tăng trưởng tín dụng phải phù hợp với tăng trưởng vốn huy động thực tế, mục tiêu tín dụng đề ra từ đầu năm và khả năng kiểm soát chất lượng tín dụng. Đồng thời, cần đảm bảo vốn khả dụng cho các nhu cầu thanh toán, an toàn hoạt động kinh doanh.

TCTD phải tăng cường kiểm soát trong cho vay các dự án kinh doanh nhà ở, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị và khu công nghiệp, đảm bảo tỷ lệ thích hợp dư nợ cho vay các dự án này, cũng như các khoản cho vay có nhận thế chấp bất động sản. Phối hợp với các bộ, ngành địa phương và khách hàng vay vốn để khẩn


trương thu hồi nợ vay đối với các đơn vị vay vốn để thi công công trình xây dựng cơ bản, nhằm xử lý dứt điểm nợ tồn đọng xây dựng cơ bản vào cuối năm 2006.

Đối với khối doanh nghiệp nhà nước thực hiện chuyển đổi, những giải pháp kiên quyết cũng được NHNN yêu cầu thực hiện như: trường hợp chây ỳ trả nợ vay, các TCTD cần áp dụng các biện pháp theo pháp luật để thu hồi nợ, kể cả xử lý tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh, thậm chí khởi kiện lên cơ quan toà án.

Mới đây, NHNN vừa ban hành Thông tư 13 và thông tư 19 về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Theo Quyết định này, các TCTD trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “có” rủi ro. Đối với các ngân hàng thương mại nhà nước, hiện tỷ lệ này thấp hơn 9%, trong vòng năm 2011 phải tăng tối thiểu bằng mức quy định. Đây là một yêu cầu không dễ thực hiện đối với các ngân hàng thương mại nhà nước, bởi hiện tại vốn tự có của đối tượng này còn thấp. Ngoài ra, NHNN cũng yêu cầu TCTD phải thực hiện hàng loạt các chỉ tiêu khác, như xác định cụ thể giới hạn tín dụng áp dụng đối với mỗi khách hàng; tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD; duy trì tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản “có” có thể thanh toán ngay và các tài sản “nợ” sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian 1 tháng tiếp theo.

Thực tế, tình trạng tín dụng phát triển “nóng” kéo theo nợ quá hạn gia tăng là bài toán khó đối với hệ thống tín dụng Việt Nam từ nhiều năm nay. Để giải bài toán này, các chuyên gia cho rằng, ngoài sự kiểm soát chặt chẽ của NHNN, bản thân các TCTD phải tuân thủ triệt để các quy định về an toàn hoạt động. ở tầm vĩ mô, Chính phủ và các bộ, ngành cần sớm đưa ra các giải pháp mạnh mẽ để phát triển TTCK, nhằm tạo ra một kênh chu chuyển vốn mới trong nền kinh tế, đủ sức chia sẻ gánh nặng tín dụng với hệ thống ngân hàng.

3.2.1.5.Phát triển đồng bộ các thị trường bộ phận bao gồm thị trường Liên ngân hàng, thị trường GTCG, thị trường ngoại hối, thị trường tín dụng.

+Phát triển Thị trường nội tệ LNH và thị trường ngoại hối.

NHNN cần rà soát lại các văn bản liên quan tới các thị trường này để bổ sung, chỉnh sửa nhằm giảm tình trạng phân khúc của TTTT. Ngoài ra, NHNN cũng cần nâng cao chất lượng của việc thu thập và cung cấp các thông tin về TTTT để tạo


điều kiện cho thành viên thị trường tiếp cận dễ dàng các thông tin cần thiết giúp cho việc xác định hạn mức, giá cả,… trong giao dịch đối với đối tác được thuận lợi.

NHNN cần tạo điều kiện để đảm bảo mối quan hệ giữa thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng phải thật chặt chẽ để truyền tải kịp thời và đầy đủ các thay đổi về thông tin từ thị trường này sang thị trường kia.

NHNN cần tạo hành lang pháp lý cho thị trường liên ngân hàng, trong đó lưu ý giao dịch vay nóng trên thị trường liên ngân hàng không cần tài sản thế chấp, nhờ vậy hạn chế tối thiểu tài sản thế chấp trên thị trường liên ngân hàng. Các giao dịch vay và cho vay có thể được thực hiện thông qua người môi giới tiền tệ và nên có thời hạn từ 1 – 15 ngày.

NHNN tạo điều kiện để tất cả các định chế tài chính hoạt động lành mạnh trở thành thành viên của thị trường liên ngân hàng, qua đó góp phần giảm thiểu rủi ro cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng. Đồng thời nới lỏng hạn chế các ngân hàng nước ngoài trong việc huy động tiền gửi trong nước hoặc cho người trong nước vay, tăng dần tỷ trọng sở hữu nước ngoài đối với các ngân hàng trong nước nhưng quyền kiểm soát các ngân hàng trong nước vẫn nằm trong tay cổ đồng Việt Nam.

+ Phát triển thị trường tín dụng và thị trường GTCG (repo).

Trong giai đoạn này, tập trung phát triển thị trường repo là một định hướng đúng đắn vì sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, thị trường tín dụng thực hiện cho vay, gửi tiền có bảo đảm được chú trọng. NHNN phối hợp với BTC xây dựng một kế hoạch phát triển thị trường repo một cách dần dần. Việc này cần được bắt đầu bằng việc khai thác sâu hơn các NVTTM, sau đó phát triển hoạt động repo liên ngân hàng, tiếp theo là repo giữa ngân hàng và các định chế khác, như các công ty chứng khoán và các tổ chức đầu tư.

Để phát triển thị trường repo, cần xây dựng Hợp đồng mua lại chuẩn áp dụng thống nhất cho giao dịch mua lại GTCG của đối với tất cả thành viên TTTT. Tuy nhiên, một số đơn vị thuộc BTC (SGDCKHN, Uỷ Ban Chứng khoán Nhà nước) và Hiệp hội các nhà kinh doanh trái phiếu Chính phủ (VNBF) cũng đang triển khai nhiệm vụ này. Để tránh sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa các đơn vị và tổ chức tiếp nhận, NHNN phối hợp với BTC và các đơn vị liên quan thành lập

Xem tất cả 249 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí